Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU VÀ NHẬN BIẾT HỌ ĐỘNG VẬT (CHIM)

  Tra cứu họ động vật:

Hạc Ciconiidae
 

Gồm những loài có kích thước lớn nhất trong bộ Hạc, với các đặc điểm chính là mỏ dài, khoẻ, giò rất dài, ngón chân sau kém phát triển , giữa các ngón trước có màng hẹp. Có móng nhỏ ở ngón thứ nhất. Cánh dài, rộng. Đuôi ngắn, các dây chằng, màng và cơ liên quan đến cơ quan phát thanh kém phát triển nên các loài thuộc họ Hạc hầu như câm. Lúc bay cổ duỗi về phía trước mà không gập cong lại như các loài thuộc họ Diệc. Chim đực và chim cái có bộ lông giống nhau. Họ Hạc gồm 17 loài thuộc 9 giống, phân bố ở hầu khắp các lục địa nhưng phần lớn là ở vùng Đông nam Á. Ở Việt Nam gặp 8 loài.

Hải âu Procellariidae
 

Là những loài chim biển có kích thước trung bình, một số loài bé khoảng 40g nhưng có một số loài rất lớn đến 12kg, sải cánh rất rộng. Mũi hình ống, dính liên hay hơi tách rời nhau. Thân chắc, ngắn, phủ lông dày, các lông bông mọc rất nhiều nhằm thích nghi với đời sống dưới nước và giữ ấm. Chân ngắn, có màng bơi, ngón sau kém phát triển hay thiếu, di chuyển khó khăn trên cạn. Chim đực và cái giống nhau.Các loài thuộc họ Hải âu đều đơn thê, chúng họp với nhau thành tập đoàn rất lớn. Làm tổ trên mặt đất, sử dụng qua nhiều thế hệ. Tổ rất thô sơ gồm 1 hõm đất nông, nhiều loài đẻ trên đá. Mỗi lứa đẻ từ 1-2 trứng màu trắng. Chim đực và cái cùng nhau ấp trứng. Thức ăn của họ này là các loài động vật nhỏ ở biển, một số loài kiếm ăn đêm. Có 47 loài phân bố trên thế giới. Ở Việt Nam duy nhất chỉ có 1 loài.

Hồng hoàng Bucerotidae
 

Gồm các loài chim rất khác biệt với các họ khác về một số đặc điểm ngoài và sinh học. Tất cả các loài thuộc họ này có cỡ lớn, cổ dài, đuôi khá dài, mỏ rất to và ở phần lớn các loài, phía trên mỏ có phần lồi cao gọi là mũ. Chân ngắn. Cánh rộng có 10 lông cánh sơ cấp. Lông bao dưới cánh ngắn không trùm lên gốc, các lông cánh sơ cấp vì vậy khi đập cánh phát ra tiếng động lớn, đặc trưng cho các loài thuộc họ này. Là các loài chim rừng chúng thường sống ở các rừng cây rậm rạp và có nhiều cây lớn. Làm tổ trong các hốc cây. Khi chim cái ấp trứng chim đực dùng bùn hoặc nhựa cây gắn gốc cây lại và để chừa lại một cửa nhỏ đủ để tiếp thức ăn cho chim cái. Suốt trong thời gian ấp trứng và sau khi chim non nở thì chim đực mớm mồi cho cả chim cái lẫn chim con cho đến khi chim non rời tổ. Thức ăn chính của loài này là các loại quả cây. Mỏ, cổ dài của chúng là những đặc điểm thích nghi với việc ăn quả. Tất cả là những loài định cư. Ở Việt nam gặp 7 loài thuộc 5 giống.

Hút mật Nectariniidae
 

Gồm các loài chim cỡ nhỏ hoặc trung bình với trọng lượng cơ thể từ 4-20g. Mỏ dài, cong, mép mỏ trên và dưới ở 1/3 chóp mỏ có hình răng cưa mịn như mỏ của Chim sâu. Lưỡi hình ống, thích hợp với việc hút mật hoa. Gốc mỏ có lông ngắn. Đuôi có 12 lông. Cánh có 10 lông cánh sơ cấp và lông thứ nhất rất bé. Chân của phần lớn các loài hút mật dài và yếu, nhưng cũng có một số loài chân ngắn và khoẻ. Bộ lông của chim đực và cái rất khác nhau. Chim cái có bộ lông màu vàng lục còn chim đực có bộ lông rất sặc sỡ và ánh thép.Là những loài chim hoạt động. Chúng thích sống ở những nơi có khá nhiều cây cối rậm rạp, có nhiều hoa, nhưng cũng có thể gặp ở vườn hoa hay công viên. Thức ăn chủ yếu là mật hoa và côn trùng nhỏ. Hầu hết các loài thuộc họ này làm tổ hình túi treo ở cành cây và có cửa trổ ra một bên. Tổ làm bằng sợi thực vật, rêu, bông và tơ nhện. Mỗi lứa đẻ 2-3 trứng. Ở Việt Nam có 17 loài thuộc 4 giống.

Khướu Timaliidae
 

Gồm phần lớn những loài chim có cỡ trung bình và một số ít loài có cỡ bé. Đặc điểm chính của họ này là bộ lông mềm, dày, xốp và thường có màu xỉn, rất ít loài có màu sặc sỡ. Mỏ thường khoẻ với mép mỏ trơn và một số ít loài có khía nhỏ ở mút mỏ trên. Chân khoẻ và cao với mép sau giò trơn, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và trên các cành cây. Cánh thường ngắn và tròn có 10 lông cánh sơ cấp. Đuôi dài, tuy nhiên có một số ít loài có đuôi rất ngắn. Đa số có 12 lông đuôi một số ít loài có 6 hay 10 lông đuôi. Hầu hết chim đực và cái có bộ lông giống nhau, một số ít loài khác nhau chút ít về màu sắc. Hấy hết các loài thuộc họ này là những loài sống chủ yếu ở bụi rậm, gần mặt đất. Chỉ một số ít loài cỡ bé sống trên các cây cao. Thức ăn là các loại quả mềm, hạt cây và sâu bọ. Một số ít loài chủ yếu ăn sâu bọ. Họ khướu là những loài chim đơn thê. Tổ hình chén, thường làm trong các bụi rậm, cách mặt đất không cao lắm. Trứng phần lớn đồng màu, ở một số ít loài trứng có hình vẽ. Ngoài mùa sinh đẻ, chúng thường sống từng đàn nhỏ. Ở Việt Nam có 85 loài thuộc 26 giống.

Mòng biền Laridae
 

Gồm những loài chim cỡ trung bình hoặc bé và một số ít là loài lớn. Trọng lượng cơ thể từ 40-2500g. Bộ lông dày, màu đen, xám và nâu trắng, mỏ khá dài một số loài mỏ cong xuống và số khác mỏ thẳng. Cánh dài và nhọn lông cánh thứ nhất kém phát triển lông cánh sơ cấp 2 dài nhất. Đuôi ngắn, hình nêm, số lông đuôi là 12. Chim đực và chim cái thường giống nhau, chim đực hơi lớn hơn. Là những loài chim bay giỏi, chạy nhanh, bơi giỏi và sống gần bờ, các bãi triều, bãi bồi. Thức ăn chính của chúng là động vật. Khi nhỏ ăn côn trùng, khi trung bình ăn cá nhỏ, khi trưởng thành ăn thịt các loài động vật có xương sống và các loài chim khác. Là họ đơn thê chúng sống với nhau thành từng đôi một thời gian khá dài. Thường làm tổ tập trung trên các bãi đẻ, tổ của chúng rất đơn giản. Mỗi năm đẻ một lứa từ 1-5 trứng. Đây là loài phân bố rộng trên thế giới chủ yếu là ở xứ lạnh, chúng có tập tính di cư vào mùa đông. Việt nam có 16 loài thuộc 8 giống.

Mỏ rộng Eurylaimidae
 

Gồm 14 phân loài phân bố chính ở vùng Đông nam Á từ Himalaya đến quần đảo Philippin ở phía đông và đảo Sumatra, ngoài ra chúng còn phân bố rải rác ở châu Phi. Mỏ của tất cả các loài thuộc họ này rất rộng và dẹt theo chiều trên dưới. Chân ngắn, khoẻ và thích nghi với đời sống trên cây. Bộ lông mềm, thường có màu tươi sáng như lục, xanh nhạt, nâu đen, nhất là các loài ở Đông nam Á. Các loài thuộc họ này các ngón chân trước có phần gốc dính với nhau, ngón 3 và 4 chỉ có một đốt ngoài tự do. Có 15 đốt sống cổ và hầu hết là những loài chim sống trong rừng rậm. Phần lớn thời gian trong ngày chúng thường ngồi yên lặng trên những cành cây rậm rạp, nhưng lúc kiếm ăn thì chúng lại rất hoạt động, chuyền từ cành này sang cành khácvà kêu luôn miệng. Tổ của chúng khá lớn, hình quả bầu có cửa bên và treo bằng một sợi dây nhỏ, dài, ở mút các cành cây nằm ngang và thường là ngả trên mặt nước. Ở Việt Nam có 6 loài thuộc 6 giống.

Nhạn Hirundinidae
 

Gồm các loài chim nhỏ, cỡ bằng chim sẻ. Cũng như Yến, nhạn là những loài chim chuyên sống trên không, có thân hình thuôn, cổ ngắn, đầu tròn, mỏ dẹp, ngắn, hình tam giác và có thể há được rất rộng. Kiểu cấu tạo mỏ như thế giúp cho nhạn bắt mồi được dễ dàng trong không trung. Giò ngắn, ngón chân yếu nhưng móng chân phát triển khá dài và cong. Cánh nhạn rất nhọn và dài gồm 9 lông cánh sơ cấp, đuôi có 12 lông phầân lớn hai lông đuôi ngoài cùng dài hơn hẳn các lông khác. Bộ lông thường mượt chủ yếu là màu đen ánh thép và màu trắng. Chim đực và cái có bộ lông giống nhau hay gần giống nhau. Là những loài bay giỏi, nhẹ nhàng. Chúng có thể đậu trên cánh cây, vách đá hay trên mặt đất nhưng không đi lại được hay đi lại rất khó khăn. Các loài côn trùng nhỏ bắt được trong khi bay là thức ăn của chúng. Nhạn làm tổ ở vách đá, đôi khi là ở trên cây. Mỗi lứa đả từ 4-6 trứng. Họ nhạn gồm 75 loài phân bố rộng rãi trên thế giới. Ở Việt nam có 10 loài thuộc 3 giống.

Nhạn rừng Artamidae
Artamus fuscus
 

Gồm một số ít các loài chim có cỡ trung bình với cơ thể chắc và khoẻ. Đặc điểm chính của họ này là cánh dài, nhọn và khoẻ. Lông cánh sơ cấp thứ nhất rất ngắn, lông thứ 2 và thứ 3 dài gần bằng nhau và là những lông cánh dài nhất . Mỏ khoẻ, có kích thước trung bình và hơi cong ở mút. Đuôi ngắn và hình vuông. Bộ lông màu xỉn và thường là màu den trắng, xám. Chi dực và cái có màu sắc giống nhau. Họ này thường sống tàhnh đàn không lớn. Tổ làm gần nhau trên cùng một cây. Tổ hình chén, làm bằng rễ cây và các sợi thực vật. Mỗi lứa đẻ 2-3 trứng. Thức ăn là các loài côn trùng nhỏ mà chúng bắt được trong không trung. Họ nhạn rừng gốm khoảng 10 loài và chỉ thuộc 1 giống duy nhất là Nhạn rừng Artamus. Tất cả đều phân bố ở Đông nam Á và châu Úc. Ở Việt Nam có 1 loài.

Nhát hoa Rostratulidae
 

Gồm một số điển hình khác với họ Rẽ điển hình. Cánh ngắn và rộng thích hợp với sự bay bốc thẳng lên và bay lên giữa các lùm cây, cỏ rậm. Đuôi ngắn, mỏ Nhát hoa dài, thẳng, có chóp cứng, hơi rộng và cong xuống một chút ít. Chân hơi dài, ống chân chụi lông hết, ngón chân dài và không có màng bơi giữa các ngón. 14 lông đuôi, chim đực và chim cái có bộ lông khác nhau. Nhát hoa bay kém, chạy giỏi và bơi khá giỏi. Họ này chỉ có hai loài thuộc hai giống phân bố nam châu Á, châu Phi châu Úc và nam châu Mỹ. Ở Việt Nam chỉ gặp duy nhất một loài thuộc giống Rostratula.

  Tra cứu họ động vật:
 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này