Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

MƯỜI NGUYÊN LÍ ĐỂ TĂNG KHẢ NĂNG CÔNG BỐ BÀI BÁO KHOA HỌC (PHẦN 1)

NGUYỄN VĂN TUẤN - Chuyên gia nghiên cứu cao cấp của Ủy hội Nghiên cứu y khoa và y tế quốc gia Úc

Phần 1: Cách viết một bài báo khoa học (tổng quan)

 

Phần 2: Cách viết một bài báo khoa học (giới thiệu)

Phần 7: Mười nguyên lí để tăng khả năng công bố bài báo (1)

Phần 3: Cách viết một bài báo khoa học (bàn về dẫn nhập)

Phần 8: Mười nguyên lí để tăng khả năng công bố bài báo (2)

Phần 4: Cách viết một bài báo khoa học (bàn về phương pháp)

Phần 9: Đánh giá tập san khoa học: Chỉ số Eigenfactor

Phần 5: Cách viết một bài báo khoa học (kết quả)

Phần 10: Cách viết bình duyệt (peer review).

Phần 6:Cách viết một bài báo khoa học (bàn luận)

Phần 11: Cách trả lời bình duyệt (response to peer review)

 

Trước đây, tôi có viết một loạt bài chỉ ra những lí do tại sao một bài báo khoa học bị từ chối. Nay tôi xin trình bày 10 nguyên tắc để nâng cao xác suất bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế. Bài này dựa vào kinh nghiệm cá nhân (trong các tập san y khoa) là phần lớn, nên có thể những nguyên tắc này không hẳn áp dụng cho các ngành khác.

Phải nói ngay rằng không có một qui định hay một công thức nào để đảm bảo bài báo khoa học được công bố trên một tập san quốc tế. Tùy theo tập san, xác suất công bố bài báo khoa học có khi chỉ là một sự may mắn. Cùng một công trình và cùng một đề tài, nhưng có công trình được đăng, còn công trình khác thì đành xếp trong ngăn tủ. Tuy nhiên, nếu chúng ta chuẩn bị tốt thì xác suất được công bố vẫn cao hơn là không chuẩn bị. “Chuẩn bị” ở đây có nghĩa là tuân thủ theo một số chỉ dẫn mà những người đi trước hay từng phục vụ trong các ban biên tập vạch ra. Trong thực tế, đã có nhiều bài báo trên các tập san chỉ dẫn cách thức tăng cơ may cho công trình được công bố trên tập san khoa học. Thay vì làm theo kiểu bài bản đó, ở đây tôi chỉ muốn chia sẻ vài kinh nghiệm cá nhân.

 

 

Nguyên lí 1: Cấu trúc bài báo một cách logic

Bài báo khoa học, nhất là trong y học, thường được cấu trúc theo công thức IMRAD (introduction - dẫn nhập, methods - phương pháp, results - kết quả, và discussion - bàn luận). Tuy nhiên cũng có vài tập san có cấu trúc khác với cấu trúc trên, với phần dẫn nhập đến kết quả và bàn luận, còn phần phương pháp thì để sau cùng. Do đó, cần phải xem xét đến qui định của tập san để cấu trúc bài báo cho thích hợp. Nhưng dù là cấu trúc nào, thì tất cả những dữ liệu trong mỗi phần phải được trình bày một cách logic và mang tính liên tục. Nếu phần dẫn nhập đề cập đến 3 mục đích, thì phần phương pháp phải mô tả cách giải quyết 3 mục đích đó ra sao, phần kết quả phải trình bày kết quả cho từng mục đích, và phần bàn luận cũng phải bám sát với 3 mục đích đó.

Nói thì tương đối dễ, nhưng khi bắt đầu viết thì không dễ chút nào, bởi vì một nghiên cứu có rất nhiều dữ liệu, mà trình bày dữ liệu nào để biện minh cho lí giải của mình là một quyết định không dễ dàng. Một qui ước đơn giản là nếu phần kết quả phải ăn khớp với phần phương pháp. Chẳng hạn như nếu phần phương pháp đề cập đến đo đường trong máu, mà phần kết quả không nói gì đến chỉ số sinh hóa này thì đó là điều không chấp nhận được. Do đó, cấu trúc bài báo và dữ liệu trong bài báo đóng vai trò quan trọng số 1 để tăng khả năng bài báo được chấp nhận cho công bố.

Nguyên lí 2: Phát biểu câu hỏi nghiên cứu và lí do nghiên cứu cho rõ ràng

Phần dẫn nhâp cần phải trả lời cho được 3 câu hỏi: câu hỏi chung, câu hỏi chuyên biệt, và nghiên cứu này có xứng đáng không?

Một phát biểu về câu hỏi nghiên cứu hay giả thuyết trong phần dẫn nhập rất quan trọng cho người bình duyệt bài báo hiểu được ý định của tác giả là gì và nghiên cứu này nằm ở đâu trong bức tranh tổng thể của chuyên ngành. Cần phải viết bằng cụ thể và đơn giản (không mĩ từ) như "We set out to determine whether condition x produces condition y" để người đọc có thể hiểu dễ dàng. Một phát biểu không rõ ràng, kiểu như "fishing expedition" hay "look-and-see approach" rất “nguy hiểm” vì dễ bị từ chối ngay từ đầu, vì nó cho thấy tác giả không định vị được nghiên cứu của mình nằm ở đâu. Người đọc, cũng như các chuyên gia bình duyệt, thường đặt câu hỏi như tại sao họ làm nghiên cứu này, có câu hỏi nào chưa được trả lời hay không, câu hỏi có đủ tầm quan trọng để mình quan tâm, v.v. Nhưng nếu viết chung chung và không trực tiếp đi vào vấn đề thì rất dễ làm cho chuyên gia bình duyệt bác bỏ bài báo.

Một yếu tố phổ biến trong các lí do từ chối bài báo là tác giả không thuyết phục được tầm quan trọng của nghiên cứu. Ngoài câu hỏi cụ thể mà công trình nghiên cứu muốn trả lời, tác giả cần phải lí giải tầm quan trọng của nghiên cứu, và giúp cho người đọc cũng như người bình duyệt nhận thức được vấn đề và đặt vào bối cảnh của họ. Cách thức để nêu tầm quan trọng là chứng minh rằng vấn đề phổ biến (hay tương đối phổ biến), hệ quả nghiêm trọng về kinh tế và y tế, có ảnh hưởng đến thực hành lâm sàng, v.v.

Nguyên lí 3: Giải thích phương pháp và dữ liệu một cách có hệ thống

Một trong những lí do phổ biến mà chuyên gia bình duyệt từ chối bài báo là họ không hiểu đầy đủ công trình nghiên cứu đã được thực hiện ra sao. Vấn đề này thường do tác giả không mô tả đầy đủ qui trình làm thí nghiệm hay qui trình thu nhập dữ liệu, từ lúc đo lường, công cụ đo lường, đến phân tích dữ liệu, nếu không mô tả đầy đủ thì đồng nghiệp sẽ rất khó lặp lại nghiên cứu.

Một cách viết phần phương pháp là viết theo qui trình … nấu ăn. Qui trình nấu ăn đòi hỏi người thợ nấu phải chuẩn bị nồi niêu, nguyên liệu, gia vị, v.v. và sau đó là làm từng bước một theo một công thức đã được định trước. Tương tự, một nghiên cứu y khoa cũng cần phải mô tả như thế. Chẳng hạn như cách chọn bệnh nhân ra sao, tiêu chuẩn loại trừ và tiêu chuẩn chọn, qui trình theo dõi và xét nghiệm, phương pháp xét nghiệm, v.v. Phải mô tả sao cho người đọc có thể nắm lấy phương

Viết phần phương pháp cho đạt là một điều khó khăn cho một tác giả. Điều này đúng vì đối với các công trình có sự hợp tác của nhiều chuyên gia từ nhiều chuyên ngành, thì không ai có thể viết cho thích hợp. Nếu viết quá chi tiết về một phương pháp nào đó (ví dụ như phương pháp xét nghiệm) thì có thể làm cho người đọc chuyên môn về laboratory medicine bắt bẽ, hay nếu viết quá chi tiết phần phân tích dữ liệu sẽ làm cho các người đọc nghi ngờ chắc công trình nghiên cứu có vấn đề. Nếu công trình nghiên cứu được thiết kế tốt thì không cần đến những phương pháp phân tích phức tạp. Do đó, cái khó là làm sao viết không quá sơ đẳng như sinh viên làm bài tập hay trả bài (kiểu như trình bày cả công thức ước tính cỡ mẫu!), nhưng cũng không viết quá chung chung vì sẽ làm cho người đọc nghĩ rằng tác giả chẳng hiểu vấn đề. Chỉ có người trong chuyên ngành có kinh nghiệm mới biết viết như thế nào là đủ. Trong vài trường hợp phức tạp, cách tốt nhất là trình bày một giãn đồ để người đọc dễ theo dõi.

Nguyên lí 4: Cấu trúc phần kết quả và phương pháp ăn khớp nhau

Kinh nghiệm của tôi cho thấy phần lớn những khiếm khuyết trong phần kết quả có thể nằm trong 3 nhóm sau đây: sắp xếp kết quả lộn xộn, trình bày không đầy đủ, kết quả không ăn khớp với phần phương pháp.

Thứ nhất, có những bài báo mà kết quả được trình bày chẳng theo một thứ t75 logic nào cả. Tình trạng này dẫn đến lẫn lộn cho người đọc, và họ sẽ rất dễ bỏ cuộc. Thông thường, các nghiên cứu y khoa thường bắt đầu phần kết quả với những thông tin về đối tượng nghiên cứu, sau đó là những kết quả chính, và cuối cùng là những kết quả mang tính củng cố cho phần kết quả chính. Phải có một bảng số liệu, một biểu đồ, hay một bức ảnh “ăn tiền” (còn gọi là money picture) để người đọc biết đó là điểm chính của bài báo.

Thứ hai, có nhiều bài báo mà phần kết quả trình bày không đầy đủ. Không đầy đủ ở đây có nghĩa là tương quan với phần phương pháp. Chẳng hạn như có nghiên cứu viết trong phần phương pháp rằng họ đo lường tỉ trọng mỡ trong cơ thể bằng DXA, nhưng phần kết quả thì chỉ trình bày WHR. Điều này dễ làm cho người đọc nổi giận, vì nói theo người Việt chúng ta là treo đầu dê bán thịt chó. Lại có những bài báo mà tác giả không thấy trình bày kết quả mà họ đã tuyên bố là đã thu thập trong phần phương pháp. Đây là một đại kị, bởi vì nó gây một ấn tượng rằng tác giả có vẻ thiếu thành thật.

Thứ ba, ngược lại trên, có những bài báo mà tác giả trình bày kết quả nhưng không thấy báo cáo trong phần phương pháp! Tôi từng đọc những bài báo tác giả trình bày những kết quả rất phức tạp, nhưng không biết dữ liệu xuất phát từ đâu! Rất nhiều bài báo trình bày kết quả phân tích thống kê nhưng không thấy mô tả trong phần phương pháp phân tích. Tình trạng này làm cho người đọc có cảm giác rằng tác giả chẳng có kế hoạch làm nghiên cứu, mà chỉ là một kiểu tra tấn dữ liệu (data torture) để có kết quả theo ý mình.

Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy cách viết phần kết quả tốt là cấu trúc theo tiêu đề. Tiêu đề nên bám sát theo phần phương pháp. Cách cấu trúc này cho phép tác giả trình bày kết quả nghiên cứu theo một logic có trước có sau, và người đọc cũng dễ theo dõi. Thông thường một nghiên cứu phải có giả thuyết, và đoạn cuối cùng của phần kết quả nên có dữ liệu yểm trợ hay bác bỏ giả thuyết.

Nguyên lí 5: Viết phần bàn luận gọn và khúc chiết

Kinh nghiệm của tôi cho thấy phần bàn luận (discussion) là phần khó viết nhất. Đây là phần mà tác giả tóm tắt những phát hiện chính, giải thích tầm quan trọng của phát hiện, và chỉ ra những đóng góp vào tri thức cũng như định hướng cho tương lai. Để viết tốt phần bàn luận, tác giả phải tỏ ra am hiểu vấn đề, phải có một tầm nhìn lớn trong một “bức tranh” rộng. Một trong những khiếm khuyết tôi hay thấy là có tác giả viết quá dài (6-10 trang), rất dễ bị xem là nhiều chuyện. Nếu nghiên cứu có kết quả tốt với phương pháp tốt, thì tác giả không cần phải “lí sự” quá nhiều. Ngược lại, có những bài báo mà đọc xong phần bàn luận tôi có cảm giác tác giả chẳng có ý tưởng gì, tất cả chỉ là lặp lại những gì đã trình bày trong phần kết quả. Cả hai cách viết – quá dài và quá ngắn – đều là cách viết không tốt. Cách viết mà tôi đã thí nghiệm và thành công là cấu trúc 6 đoạn như sau:

Đoạn 1: tóm tắt lí do nghiên cứu, giả thuyết, và phát hiện chính.

Đoạn 2: so sánh kết quả với các nghiên cứu trước, và giải thích tại sao có sự khác biệt (hay giống nhau).

Đoạn 3: giải thích “cơ chế” của kết quả; nếu không biết hay không rõ cơ chế, thì đề xuất giả thuyết để giải thích. Đoạn này khó viết nhất.

Đoạn 4: viết về tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn (nếu có) của kết quả nghiên cứu.

Đoạn 5: viết về những ưu điểm và khuyết điểm của nghiên cứu.

Đoạn 6: kết luận.

Nên nhớ rằng trong khi diễn giải kết quả nghiên cứu hay so sánh với các nghiên cứu trước, không được và không nên viết theo kiểu lí luận một chiều. Trong khoa học, bất cứ một kết quả nào cũng phải được giải thích bằng nhiều góc cạnh. Trong nhiều trường hợp, tác giả không ngần ngại nói thẳng rằng kết quả có thể là … ngẫu nhiên.

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này