ẾCH CÂY HELEN
ẾCH CÂY
HELEN
Rhacophorus helenae
Rowley, Tran, Hoang & Le, 2012
Họ: Chẫu cây Rhacophoridae
Bộ:
Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận dạng:
Chiều dài từ mút
mõm đến lỗ huyệt 72.3 - 85.5 mm ở con đực và 89.4 - 90.7 mm ở con cái. Đầu dài
hơn rộng. Mõm cụt ở mặt lưng, nghiêng ở góc nhìn ngang và nhìn từ bụng có thể
thấy mút mõm nhọn. Khoé mắt tròn rõ. Mũi hình bầu dục, nằm gần mút mõm hơn mắt.
Vùng má xiên nghiêng và hơi lõm. Vùng gian mắt lồi. Đồng tử nằm ngang. Màng nhĩ
rõ và hơi nâng lên gần da. Loài này không có mắt đơn vùng chẩm. Da vùng trán
cũng không có tổ hợp hoá xương. Răng lá mía xếp thành những nhóm lệch. Lưỡi lõm
chữ V sâu. Thân hóp phía lưng bụng. Chân trước mập, có riềm mỏng hoặc vành da ở
mép ngoài cẳng chân, dọc theo cổ chân. Công thức ngón I < II < IV < III. Các
ngón có đĩa rộng với những rãnh viền tròn và màng bơi giữa tất cả các ngón. Công
thức màng bơi I 1½ - 1½ II 0 - 0 III 0 - 0 IV. Có một sốt sần hình bầu dục nhô
lên dưới khớp của ngón I và II, có hai nốt như thế trên mỗi ngón III và IV.
Không có củ bàn chân. Có một mấu ngón thừa hình bầu dục nhô lên. Chân sau có mấu
lồi hình vuông trên khớp cổ chân. Công thức ngón I < II < III < V < IV. Các ngón
đều có đĩa rãnh tròn viền nhỏ hơn của chân trước. Các ngón đều có màng bơi. Công
thức màng bơi I 0 - 0 II 0 - 0 III 0 - 0 IV - 0 V. Củ dưới khớp tròn rõ. Mỗi
ngón I và II có một củ, ngón III và V mỗi ngón có 2 củ, ngón IV có 3 củ. Bàn
chân sau có một củ bàn chân trong hình bầu dục bé, nhưng không có củ bàn chân
ngoài hoặc mấu ngón thừa. Da trên lưng, họng, ngực mịn. Da trên mặt bụng của đùi
và bụng nổi hột. Trên huyệt có riềm da xẻ thuỳ đơn bé. Mút bàn chân xuất hiện ở
con đực, nằm ở méo mấu ngón thừa và ngón đầu tiên. Con đực có túi kêu đặt ở mép
miệng. Da ở vùng họng của con đực nhăn chùng xuống. Trong tự nhiên: Cá thể
trưởng thành có
lưng màu xanh lá cây nhưng có thể rải rác đốm trắng nhỏ. Có vết thâm ở vùng
nách. Hông và mặt trên của cẳng chân trước, mặt bụng của phần dưới cẳng chân
trước và mặt trước cũng như sau đùi màu xanh lá cây ánh xanh lam và có hoa văn
vàng nhạt ở hông. Riềm vành da ở chân trước và sau và thuỳ trên lỗ huyệt có có
kẻ viền trắng. Mặt lưng của màng bơi màu xanh lá cây nhạt có méo xanh lá hoặc
vàng nhạt. Có mảng màu đen trải rộng từ đánh của các ngón chân trước màu xanh lá
cây nhạt hoặc vàng. Họng, ngực và bụng màu trắng có màu phớt hồng ở viền sau mép
bên. Mặt bụng của chân trước và sau màu hồng. Đồng tử màu vàng kim loại có đốm
nhạt màu vàng đậm và một viền đen. Màng cứng màu trắng. Con non có lưng màu xám
xanh lam kèm đốm thâm và đốm bụng vàng sáng. Không có đốm ở hông Nòng nọc có mặt
lưng màu vàng ô lưu đến nâu sẫm tuỳ vào ánh sáng và màu nước.
Rhacophorus helenae khác các loài thuộc giống Rhacophorus khác ở Việt Nam bởi
những đặc điểm sau:
Khác các loài cùng Giống Rhacophorus sp. ở Đông Nam Á trừ các loài
Rhacophorus dennysi, Rhacophorus duboisi,
Rhacophorus feae, Rhacophorus kio,
Rhacophorus maximus, Rhacophorus nigropalmatus bởi nó có lưng màu xanh
lá cây thuần khiết hoặc phần lớn là thuần khiết.
Khác loài Rhacophorus dennysi bởi sự xuất hiện của đệm đen, mặt dưới
trắng ở nách và khớp cổ chân. Có riềm da.
Khác loài Rhacophorus duboisis bởi lưng màu xanh lá, bụng trắng, màu nền
xanh lá ánh xanh lam có hoa văn vàng nhạt ở trước đùi, vết đen ở nách, có riềm
da, màng khớp cổ chân.
Khác loài Rhacophorus feae bởi vết đen ở nách, một riềm da, màng khớp cổ
chân.
Khác loài Rhacophorus maximus bởi có lưng màu xanh lá, hoa văn vàng nhạt
ở sau đùi, vết đen ở nách, một riềm da và màng da khớp cổ chân.
Khác loài Rhacophorus niropalmatus bởi lưng xanh, bụng trắng, nách có vết
đen. Màu nền xanh lá ánh xam lam có hoa văn vàng nhạt ở sau đùi.
Khác Rhacophorus kio bụng trắng, có riềm da thuỳ huyệt. Màu nền xanh lá
ánh xam lam có hoa văn vàng nhạt ở sau đùi. Kích thước cũng lớn hơn
Rhacophorus kio
Nòng
nọc của Rhacophorus helenae cũng khác nòng nọc của Rhacophorus
annamensis bởi công thức hàng răng môi.
Sinh học, sinh thái:
Loài lưỡng cư có
vòng đời biến thái hoàn toàn này thường sống
và kiếm ăn
ở trên cây nơi có độ cao thấp thuộc các khu rừng thường xanh và xuất
hiện vào ban đêm
trong các tháng mùa mưa nơi có những vũng nước lớn hay suối nhỏ trong rừng. Kiếm
ăn và giao phối, đẻ trừng từ thàng 6 đến tháng 8 hàng năm. Nòng nọc được nở
trong các bọc trứng khỏe mạnh trước khi rơi xuống các vũng nước. Tên loài được
vinh danh mẹ của nhà nghiên cứu lưỡng cư người Úc
- Tiến sỹ Rodi Lowley.
Phân
bố:
Đây
là loài có vùng phân bố khá rộng, từ Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông thuộc tỉnh
Bình Thuận đến Vườn quốc gia Cát Tiên, Khu bảo tồn thiên nhiên
văn hóa Đồng Nai, rừng phòng hộ đầu nguồn Tân Phú - Đồng Nai.
Mô tả loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin