New Page 1
CÓC MÀY
MÀU ĐỒNG
Leptolalax aereus Rowley et al, 2010
Họ:
Ếch nhái Ranidae
Bộ:
Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận dạng:
Kinh
thước nhỏ, đầu ngón chân tròn, xuất hiện nốt sần gan bàn chân trong, không tiếp
nối với ngón cái. Xuất hiện tuyến lớn trên thân (bao gồm tuyến nách, ức, bụng
bên và đùi). Răng lá mía tiêu biến. Có nốt mụn trên mi mắt. Trước chóp mõm có
vết ngang, màu tái nhợt. Kích thước 25.1 - 28.9 mm ở con đực, 27.1 - 38.6 ở con
cái. Tiêu biến vết nâu sẫm hoặc đen ở mặt bên lưng trên đầu. Ngực và bụng gần
như có màu trắng thuần khiết. Đầu dài hơn rộng. Không có màng hoặc viền mặt bên
ở trên các ngón. Có màng thô sơ giữa các ngón cái
I -
IV,
không có màng giữa các ngón cái
IV
- V.
Ngón cái có viền mặt bên mờ. Tiếng kêu có âm thanh đạt 3 - 4 nốt nhạc bao gồm 1
- 2 nhịp và có tần số
6187.5 - 7875 Hz.
Đầu dài hơn
rộng. Mõm tròn ở góc nghiêng, hơi lồi ra khỏi hàm dưới.
Mũi gần chóp mõm hơn mắt. Góc mắt tròn. Vùng trước mắt nghiêng. Đồng tử nằm
ngang. Đường kính mắt gần bằng chiều dài mõm. Màng nhĩ rõ, tròn, đường kính bằng
56% đường kính mắt, viền màng nhĩ không dâng cao nên gần vùng thái dương. Mắt
đơn tuyến tùng tiêu biến. Túi kêu rộng, hình bầu dục, đặt ở đáy miệng, túi kêu
liên kết dưới họng trong. Lưỡi to, rộng, có vết lõm nhỏ ở chót hẹp phía sau. Có
đường dãy trên màng nhĩ rõ chạy từ mắt đến tuyến nách. Đầu ngón chân tròn, không
rộng hơn đốt ngón. Ngón I dài như ngón II, khác biệt số đo chiều dài giữa
các ngón là
I <
II = IV < III.
Mu ngón cái tiêu biến. Nốt mụn bọc da tiêu biến. Nốt mụn gan bàn chân trong lớn,
nén lại ở mặt bên, tách biệt với nốt mụn gan bàn chân ngoài nhỏ hơn. Không có
màng chân và mép mặt bên. Đầu các ngón cái giống ngón chân, khác biệt số
đo chiều dài giữa các ngón cái:
I <
II < V < III < IV.
Nốt mụn bọc da tiêu biến, được thay thế bằng những dãy ụ da, rõ ở ngón cái thứ
ba, tư và năm. Nốt mụn đốt bàn chân trong hình bầu dục, nhỏ. Nốt mụn đốt bàn
chân ngoài tiêu biến. Màng thô có giữa các ngón cái 1 - IV, tiêu biến giữa các
ngón cái IV - V. Các ngón cái có viền bên mờ. Ống chân gần bằng một nửa chiều
dài từ mút mõm đến lỗ huyệt. Khớp xương chày - cổ chân chạm mút mõm. Da trên
toàn bộ lưng có nốt mụn ép phía bên hoặc tròn, thấp, lớn hơn ở phần sau lưng và
mặt lưng bên, hình thành dãy gờ mờ trên mặt lưng của đùi và cánh chân trên. Da
bụng mịn. Tuyến ngực ép hướng mặt bên, đường kính 1 mm. Tuyến đùi hình bầu dục,
đường kính 0.9 mm, ở mặt bụng sau của đùi, gần đầu gối hơn lỗ huyệt. Tuyến nách
trên nổi, đường kính 0.8 mm. Nhiều tuyến nhỏ xung quanh miệng lỗ huyệt. Xuất
hiện các tuyến bụng bên, ép theo chiều bên lưng, hình thành một đường không hoàn
thiện.
Màu sắc tự nhiên:
Lưng có màu nâu kèm lớp tráng màu da cam/đồng. Nách đến cùi chỏ và gót có màu
cam. Mặt lưng của đầu có màu đồng nhạt. Vệt màu nâu xám ở gian ổ mắt, có hoa văn
hình W ở giữa các nách, có hình chữ V ngược ở giữa xương cùng và đậm hơn ở vùng
bẹn. Các vệt nâu xám nhạt ở trên nền cam nhạt tại môi trên. Vùng má và màng nhĩ
có hoa văn màu đen hoặc màu nâu sẫm không rõ. Những vệt nâu xám ngang, lan toả
trên mặt lưng của các chân. Mặt bụng của cùi chỏ và cánh chân trên không có sọc
sẫm. Ngón chân và ngón cái có vệt ngang mờ nhạt. Những vết lốm đốm màu nâu xám
nhỏ dọc theo sườn. Mặt bụng của ngực và bụng có màu trắng mờ đục.
Họng có màu hồng
nhạt trong suốt. Mép ngoài ngoài của cằm và đùi, cánh chân và tất cả chày cổ
chân đều có màu xám nâu kèm đốm trắng nhỏ. Tuyến nách trên màu cam. Tuyến lưng
bên, ngực, đùi đều có màu trắng. Mống mắt màu vàng đồng có tạo lưới đen tỉ mỉ.
Màu sắc
tiêu bản:
Mặt lưng màu nâu. Mặt bụng bao gồm họng có màu trắng. Mép bụng bên của ngực và
bụng và mép của họng có vết đốm màu nâu. Mặt bụng của đùi và cẳng chân màu kem
đến nâu nhạt có đốm trắng. Có đốm trắng và nâu xám sẫm trên sườn. Tuyến lớn màu
trắng và tuyến ngực bị mờ
so với màu sắc tự
nhiên.
Sinh học, sinh thái:
Loài này xuất hiện nhiều ở các suối đá trong rừng kín thường xanh hoặc bán thường xanh. Tất cả các địa điểm
thu mẫu đều nằm ở độ cao từ 284 - 511 m.
Các mẫu vật đều được thu vào ban đêm trong khoảng 20 - 23 giờ. Khi quan sát, thấy con đực kêu từ các kẽ hở giữa các tảng đá, trên đá và trên bờ suối. Con cái được tìm thấy trên đá ở giữa dòng và cách suối
khoảng 1 m. Tiếng kêu của loài này được ghi nhận từ thàng 5 cho đến tháng 10 cho thấy rằng việc sinh sản có thể diễn ra
hàng năm vào mùa mưa. Môi trường sống tự nhiên của loài
lưỡng cư này là các khu rừng ẩm ướt,
nơi có các con suối chảy.
Vòng đời của chúng là những loài biến thái hoàn toàn
đẻ trứng dưới nước và ấu trùng ăn thực vật, sau đó lên bờ ăn các loài côn
trùng, chân đốt.
Phân bố:
Trong nước: Vùng phía Tây Nghệ
An, giáp với Lào
Thế giới: Lào - Savanakhet
Mô
tả loài: Phùng Mỹ Trung, Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường - WebAdmin.