Loài ễnh ương có kích thước lờn, cơ thể
mập mạp. Thân màu đỏ nâu và các vệt không đều màu sáng. Hai bên hông có viền nâu
đen, lớn, kéo dài từ trên mắt đến háng. Một đường kẻ sọc màu sắc tương tự chạy
dọc giữa lưng đến gần lỗ huyệt, có hình chữ T hoặc chữ Y ở các mẫu tại Phú Quý.
Mặt trên của chân trước và chân sau có vùng màu nâu đen. Bụng màu trắng vàng.
Mắt to, tròn, đồng tử nằm ngang.
Chân trước
không có màng bơi, chân sau có
nửa màng bơi. Đầu ngón chân nhọn, ngón thứ 2 rất dài. Có đường sọc ngang màu nâu
mờ hẹp ở trên đỉnh đầu. Có một số khác biệt nhỏ theo những mô tả mẫu vật trước
đây và hiện nay, những khác biệt về màu sắc này không đáng kề. Bàn chân có hai
củ, củ bàn bàn ngoài nhỏ hơn củ bàn chân ngoài.
Đầu mút ngón chân dạng đĩa.
Sinh học, sinh
thái:
Loài này thường sống trong các kiểu
rừng khộp Họ
Dầu Dipterocapaceae và mới ghi nhận ở sống trên đảo ven biển. Thức ăn là các
loài côn trùng sống trong khu vực phân bố (Mối và Kiến). Chỉ xuất hiện khoảng 1
tuần vào những cơn mưa đầu mùa để đẻ trứng và
giao phối. Sau đó chúng chui xuống đất và biến mất, khoảng thời gian kéo dài
này chúng sống dưới đất đợi mùa mưa năm sau chui lên kiếm ăn. Chưa có bất cứ
nghiên cứu sâu nào về đời sống của loài này diễn ra trong suốt thời gian sống
trong lòng đất.
Vòng đời
biến thái hoàn toàn của
chúng cũng trải qua các giai đạn giống như các loài lưỡng cư khác là dưới nước
và trên cạn.
Phân bố:
Trong nước: Hầu khắp các khu rừng Khộp ở
Tây nguyên Kontum, Darklak, Gia Lai và mới ghi nhận sống ở Đảo Phú Quí thuộc
tỉnh Bình Thuận.