SAN HÔ CÀNH ĐẦU NHỤY
SAN HÔ CÀNH ĐẦU NHỤY
Stylophora pistilata
Esper, 1797
Madrepora pistillaris
Esper, 1797
Stylophora palmata
de Blainville, 1830
Sideropora modax
Dana, 1846.
Họ: San hô cành Pocilloporidae
Bộ: San hô cứng Scleractinia
Đặc điểm nhận
dạng:
Tập đoàn dạng bụi
cây hình bán cầu, phân nhánh lưỡng phân. Đỉnh cành to thô, đôi khi nảy ra một
cái mấu như mầm cành. Cành phình ra ở nhiều chỗ. Lỗ miệng có cấu trúc biến đổi
trong cùng một tập đoàn, miệng ở đầu cành có đáy sâu, đường kính 1 - 1,5mm,
xương thành mỏng, 6 vách ngăn mỏng và mịn; miệng ở phía dưới có đường kính tương
tự nhưng đáy nông, xương thành và vách dày, có xương lõi, trên vách ngăn và lõi
có hạt; miệng ở gần gốc rất nông và cấu trúc xương thành và vách dày. Đại đa số
lỗ miệng đều bị che bởi một thể xương hình vòm. Mẫu sống có màu hồng, nâu, vàng,
kem và xanh; đỉnh cành thường có màu nhạt hơn.
Sinh học, sinh
thái:
Sống ở vùng nước
trong vừa đến rất trong, có sóng vừa hoặc ít sóng, độ sâu 0 - 40m.
Phân bố:
Trong nước:
Trên các rạn san hô Tây vịnh Bắc Bộ (Cát Bà, Long Châu, Cô Tô, Bạch Long Vỹ, Cồn
Cỏ), ven bờ miền Trung đến Đông Nam Bộ, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Thế giới:
Phân bố rộng trong vùng nước ấm Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương.
Giá trị:
Hàng mỹ nghệ,
trang trí bể cá cảnh.
Tình trạng:
Là loài nhạy cảm
bị chết hàng loạt khi môi trường thay đổi, đặc biệt do nước đục và độ muối thấp;
vùng phân bố bị thu hẹp liên tục do ô nhiễm môi trường ven bờ.
Phân hạng:
EN A1a,c B2a,c.
Biện pháp bảo vệ:
Không khai thác
làm mỹ nghệ; bảo vệ rừng trên đảo và rừng đầu nguồn; không khai thác cá trên rạn
bằng chất độc, chất nổ; không kéo lưới cào gần chân rạn san hô. Cần đầu tư
nghiên cứu sinh học làm cơ sở đề xuất việc khai thác hợp lý, phát triển bền vững
nguồn lợi.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55