CÓC MẮT TRƯỜNG SƠN
CÓC MẮT TRƯỜNG SƠN
Xenophrys truongsonensis
Luong et al., 2022
Họ: Ếch nhái Ranidae
Bộ: Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận dạng:
Loài lưỡng cư có kích thước tương đối lớn, chiều dài từ mút mõm đến lỗ huyệt
58.8 - 71.4 mm ở con đực và 65.6 - 87.3 mm ở con cái. Đầu rộng hơn dài. Mõm xiên cụt
ở chính diện, mút mõm nhô khỏi hàm dưới. Màng nhĩ nhỏ, rõ, hình bầu dục. Riềm ra
chạy từ sau mắt qua màng nhĩ và kết thúc ở một mấu dày trên cẳng chân trước.
Chân sau dài, có màng thô và hẹp giữa các ngón (bốn đốt của ngón thứ tư không
màng), riềm da mặt bên chạy dọc đến đầu ngón. Củ bàn khớp của chân trước và sau
tiêu biến và được thay thế bằng những riềm da mỏng dưới ngón. Củ bàn chân trong
dẹp, củ bàn chân ngoài tiêu biến. Mặt lưng của thân có nổi hột mờ, một cặp riềm
lưng bên và một riềm hình chữ X ở sau đầu chính giữa lưng. Một vài riềm không
hoàn thiện chạy dọc các chân. Mí mắt trên có nốt sần nhọn nhỏ, rõ. Lưng eo chi
chít nốt sần nhỏ. Mặt dưới của thân và của chân mịn. Có những cặp tuyến trắng
trên ngực và đùi. Con đực không có gai mu ngón và túi kêu.
Xenophrys
truongsonensis trước
đây bị nhầm lẫn với loài
Xenophrys maosonensis nhưng chúng khác
nhau bởi hông có nốt sần nhỏ và đốm trắng nhỏ (so với có nốt sần lớn và đốm
trắng lớn hơn ở Xenophrys maosonensis) Trong tự nhiên, mặt lưng của đầu và thân màu nâu
hoặc nâu xám, có hoa văn đối xứng màu nâu đậm hơn nhưng viền sáng hơn, có một
đốm hình tam giác giữa các mắt và một hoặc ít hơn hoa văn hình đồng hồ cát hoàn
chỉnh giữa vai. Mặt bên của đầu có một vằn đậm ở mút mõm và trải rộng trên mũi,
má, thái dương đến vai. Một sọc trắng đứt đoạn chạy từ sau mũi đến dưới màng nhĩ.
Các chân màu nâu có vằn ngang màu nâu đậm, phía trước đùi màu nâu cam. Họng và
ngực màu nâu tím, có đốm trắng viền thâm ở ngực. Bụng và mặt bụng của chân màu
vàng trứng/ Háng màu nâu đỏ cam. Loài cóc này có màng bơi màu nâu và đầu ngón
chân màu xám sáng. Đồng tử màu đồng ở trên và nâu ở dưới.
Sinh học, sinh thái:
Sống trong
rừng thường xanh thứ sinh hỗn giao cây gỗ trung bình và nhỏ với cây
bụi ở độ cao 630 m đến 1.605 m.
Nòng nọc dáng thon dài, cơ bắp đuôi khoẻ nhưng ít
vảy. Miệng của chúng có đĩa tán bầu dục hướng lên trên. Chúng không có cấu trúc
răng keratin hoá ở hàm. Chúng ăn thực vật phù du trong suối.
Phân bố:
Trong nước: Dak Lak,
Dak Nông, Kontum, Lâm Đồng, Ninh Thuận. Quảng Nam và Thừa Thiên Huế của Việt
Nam.
Nước ngoài: Champasak và Sekong của Lào.
Mô tả
loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.