Con cái có chiều dài thân 55.6 - 56.9 mm. Cơ thể hình quả thông rõ ràng. Đường
kính màng nhĩ của con đực bằng với con cái. Con đực có túi kêu nhỏ dưới cổ họng.
Ngón thứ nhất của chân trước ngăn hơn ngón thứ hai, không có nếp da phía trước
trục ngón thứ hai và thứ ba. Đầu ngón chân sau nở rộng với đường rãnh ở mép
ngoài, con đực có chiều rộng đĩa ngón thứ ba chân trước bằng ½ đường kính màng
nhĩ. Chân sau có một củ bàn ngoài. Nếp gấp bên lưng mảnh, kéo dài từ góc sau của
mí mắt trên đến gần huyệt. Da trên lưng trơn. Con đực không có tuyến dưới chân
trước. Lưng con đực có màu xanh lá - xanh lục trong điều kiện bảo quản. Con cái
có màu xanh lá - lục đến xanh lá hơi vàng, nâu dưới bụng. Trứng không màu. Sinh
học sinh thái:
Sinh học, sinh thái:
Là loài ăn đêm, thường thấy ở trên các tảng đá giữa dòng suối
ở độ cao 1.000m ở các khu rừng nguyên sinh. Thức ăn là các loài côn trùng, ếch nhỏ, nòng nọc của loài khác
sống trong khu vực phân bố. Thường gặp vào đầu mùa mưa hàng năm chúng kết đôi,
đẻ trứng ở các khu vực nước chảy chậm. Vòng đời biến thái hoàn toàn của chúng
cũng trải qua các giai đạn giống như các loài lưỡng cư khác là dưới nước và trên
cạn.
Phân bố:
Trong nước: Loài này được phát hiện và công bố năm 2006 ở các tỉnh
Kontum, Thừa Thiên Huế. Mới đấy còn ghi nhận phân bố ở Khu bảo tồn thiên nhiên
Pù Hoạt, Nghệ An
Nước ngoài: Chỉ được biết đến từ Lào (các tỉnh Khammouan và Khouang). Loài này
cũng có thể được tìm thấy trên khắp vùng cao nguyên phía Nam của Lào và vùng cao
nguyên Trung phần của Việt Nam và rất có thể còn phân bố đến tận vùng cực đông
bắc Campuchia.