CÁ TRỮ
CÁ TRỮ
Laichowcypris dai
Hảo & Hoa, 1969
Cyprinus dai
Kottelat, 2001.
Họ: Cá chép Cyprinidae
Bộ: Cá chép Cypriniformes
Đặc
điểm nhận dạng:
Cá cỡ
lớn, thân cao, hơi dày, dẹp bên, phần trước
vây lưng hơi nhô cao.
Đầu nhỏ, gáy thấp
hẳn so với lưng. Mõm hơi tù. Có hai đôi râu khá phát triển, râu hàm lớn hơn râu
mõm và dài, đều dài hơn đường kính mắt. Mắt vừa phải nằm chếch phía trên. Khoảng
cách hai mắt rộng hơi phẳng. Miệng ở mút mõm hoặc kề dưới, hình móng ngựa, rạch
chưa tới đường viền trước mắt. Môi trên và dưới dày, có nhiều mấu thịt li ti.
Vây lưng có khởi điểm sau khởi điểm
vây bụng, ở giữa mút mõm và gốc vây đuôi. Hậu môn ở sát gốc vây hậu môn. Tia
đơn cuối vây lưng và vây hậu môn hoá xương rắn chắc, phía sau có răng cưa, vây
đuôi phân thuỳ sâu. Vẩy tròn lớn và dày. Đường bên hoàn toàn. Lưng và hông xám
đen, phía bụng trắng ngà.
Dọc
thân có 12 - 13 sọc đen chạy giữa các hàng vảy rất đặc biệt. Các vây màu da cam,
ngọn xám hơn giữa.
Sinh
học, sinh thái:
Cá sống
ở tầng đáy và tầng giữa của các sông suối thuộc hệ thống sông Đà, nơi nước chảy
tương đối mạnh, đáy nhiều sỏi đá. Cá thuộc loài ăn tạp, thức ăn thường là ấu
trùng
côn trùng, ấu trùng muỗi, giun ít tơ, nhuyễn thể, các mảnh vụn hữu cơ và các
hạt thực phẩm.
Cá có kích thước
lớn tới 10kg, thường gặp cá 5 - 6kg, cỡ khai thác trung bình 1 - 2kg.
Mùa sinh sản của
cá từ tháng 4 - 6, bãi đẻ ở trung và thượng lưu nơi nước chảy xiết, có nhiều đá
sỏi và
cây cỏ thuỷ sinh, rong rêu bám đáy. Trứng đẻ ra dính vào các lá cây, các giá
thể ở Trong nước.
Phân bố:
Trong nước:
Các sông suối thuộc hệ thống sông Đà ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La và Hoà Bình.
Thế giới: Chỉ có ở Việt
Nam.
Giá trị:
Cá trữ là loài cá
đặc hữu trong giống đặc hữu của Việt Nam. Cá có kích thước khá lớn, thịt
ngon, là đối tượng cá kinh tế của vùng núi Tây Bắc. Cá có đầu rất nhỏ, thân ngắn
và cao, có thể lai tạo với cá chép để tăng tỷ lệ phần thịt của cá lai.
Tình trạng:
Những năm của
thập kỷ 60 Cá trữ có khá nhiều ở sông Đà; đặc biệt là vùng thuộc địa phận tỉnh
Lai Châu. Trong khoảng 20 năm nay sản lượng Cá trữ giảm đáng kể do đánh bắt quá
mức và việc phá rừng đầu nguồn lũ lụt nhiều, đáy lòng sông suối bị đảo lộn; đặc
biệt là việc hình thành hồ chứa lớn Hoà Bình, nên vùng sinh sống của Cá trữ bị
thu hẹp. Tuy đã khảo sát nhiều năm nhưng các vùng phân bố cũ của Cá trữ không
còn, có thể đã
bị tuyệt chủng. Những năm tới Nhà nước sẽ xây dựng thêm hồ chứa Sơn La, vùng
ngập kéo dài đến Lai Châu, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến phân bố và đời sống Cá
trữ.
Phân hạng:
EN A1a,c,d B1+2a,b,c.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
danh sách các loài cần bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Tuy nhiên, chưa có
các qui chế cần thiết để bảo vệ loài cá này. Cần cấm đánh bắt Cá trữ ở các vùng
nước tự nhiên thuộc tỉnh Lai Châu từ 8 - 10 năm. Cần điều tra nghiên cứu kỹ hơn
loài cá này để có biện pháp bảo vệ và sử dụng hợp lý. Cần đưa cá về nuôi, nghiên
cứu tạo giống giúp cho việc bảo vệ nguồn gen quý của loài cá này và góp phần
khôi phục quần đàn cá ở các vực nước tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.