CÁ CHUỐI HOA
CÁ CHUỐI HOA
Channa maculata
(Lacépède, 1802)
Bostrychus maculatus
Lacépède, 1802
Ophiocephalus maculatus
Cuvier
& Valenciennes, 1831
Ophiocephalus lucius
Koller,
1924.
Họ: Cá chuối Channidae
Bộ Cá vược Perciformes
Đặc
điển nhận dạng:
Cá có
cỡ trung bình, thân trụ tròn dài, phần sau dẹp bên.
Đầu dài nhọn.
Miệng rất lớn, rạch xiên kéo dài quá viền sau mắt. Trên hai hàm, xương lá mía và
xương khẩu cái đều có răng nhỏ. Mũi nhọn dài, mỗi bên đầu có 2 lỗ mũi. Hai bên
má có hệ thống lỗ nhỏ, sắp xếp theo quy luật. Mắt lớn, khoảng cách 2 mắt rộng,
hơi lồi. Vây lưng và vây hậu môn rất dài và đều là tia mềm không nối liền với
vây đuôi. Vây ngực tròn, vây bụng bé.
Đỉnh
đầu có vảy hình tấm tương đối bé.
Đường
bên gián đoạn. Cá màu xám nâu, xen kẽ các vạch chấm đen. Dọc thân có hai hàng
chấm đen. Gốc vây lưng có 1 hàng chấm đen lớn.
Đầu có
1 vạch đen gãy khúc chạy từ mắt đến gốc vây lưng. Trên các vây phần lớn chấm đen
xếp thành hàng.
Sinh
học, sinh thái:
Sống ở
các sông ngòi, ao hồ, đồng ruộng ngập nước, nơi có nhiều thực vật thủy sinh. Về
mùa rét cá dễ bị nhiễm bệnh nấm có thể lây lan thành dịch bệnh làm chết hàng
loạt. Cá có thể sống ở các vùng nước có hàm lượng oxy thấp nhờ có cơ quan hô hấp
phụ. Cá chuối hoa là loài cá dữ điển hình, ăn nhiều cá con, ếch nhái, tôm cua,
côn trùng và ấu trùng... Cá sinh trưởng nhanh, 1 tuổi đạt 0,5kg; 2 tuổi đạt 1,2
- 1,5kg; 3 tuổi đạt 1,8 - 2,5kg; 4 tuổi đạt 3,5 - 4kg; lớn nhất có thể đạt tới
10 - 12kg/con. Cá thành thục vào năm thứ 2. Mùa sinh sản từ tháng 5 - 10, tuỳ
theo vùng có thể sớm hoặc muộn hơn. Đến mùa sinh sản cá thường sống từng đôi,
làm tổ ở các vùng gần bờ ao, đầm, hồ, ruộng nước, sông ngòi. Chúng thường dọn
sạch các cây cối thuỷ sinh tạo thành khoảng trống, mặt thoáng với độ rộng từ 0,4
- 0,6m2 để đẻ trứng vào đó. Trứng nổi trên mặt nước và dính lại với
nhau thành đám. Cá đực và cá cái quanh quẩn gần tổ để bảo vệ trứng và chăm sóc
con cái đến khi cá con tự kiếm ăn và tránh được kẻ thù. Cá đẻ thành nhiều đợt
trong mùa đẻ, mỗi đợt từ 5.000 - 30.000 trứng, tuỳ theo kích thước của cá cái.
Phân bố:
Trong nước:
Các tỉnh phía Bắc cho tới Thanh Hoá (Nguyễn Thái Tự, 1983).
Thế giới:
Trung Quốc.
Giá trị:
Loài cá quí, hiếm
mặc dù sản lượng cá
tự nhiên ở đồng bằng Bắc bộ khá cao, kể cả vùng nước lợ ven biển. Cá có triển
vọng là đối tượng nuôi xuất khẩu.
Tình trạng:
Khoảng 10 - 15
năm gần đây sản lượng cá giảm sút nghiêm trọng, số lượng cá trưởng thành ước
tính giảm tới trên 80%. Nhiều vùng Cá chuối hoa trở nên khan hiếm, có thể coi
như không còn. Nguyên nhân chính là nơi cư trú bị chia cắt, có biến đổi lớn, thu
hẹp trên 50% do xây dựng các công trình thủy lợi, thay đổi chế độ canh tác trên
đồng ruộng như trồng các cây ngắn ngày, tưới tiêu khoa học, phun thuốc trừ sâu,
bị đánh bắt quá mức nhất là vào mùa sinh sản. Mặt khác, nhiều năm liên tiếp cá
bị bệnh lở loét, lan truyền nhanh thành dịch, làm chết hàng loạt.
Phân hạng:
EN A1c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
danh sách các loài cần bảo vệ của ngành Thủy sản từ năm 1996. Tuy nhiên chưa có
quy chế khai thác và bảo vệ loài cá này. Cần giảm cường độ khai thác Cá chuối
hoa ở vùng đồng bằng và ven biển. Giảm việc dùng thuốc trừ sâu trong nông
nghiệp, chống ô nhiễm các vực nước. Cần nghiên cứu kỹ hơn loài cá này, tạo nguồn
giống cung cấp cho các vùng nuôi và phục hồi tái tạo nguồn lợi tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.