ẾCH BÁM ĐÁ GAI NGỰC
ẾCH
BÁM ĐÁ GAI NGỰC
Amolops spinapectoralis
Inger, Orlov & Darevsky, 1999
Họ:
Ếch nhái Ranidae
Bộ:
Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận dạng:
Loài ếch bám đá có kích thước trung bình.
Dài mút mõm đến lỗ huyệt 36.9 - 37.88 mm ở con đực và 41.64
- 45.15 mm ở con cái.
Thể tạng chắc nịch. Đầu rộng hơn dài. Rộng đầu 14.34
- 16.87 mm, dài đầu
13.73 - 16.11 mm. Mõm tròn. Mắt lớn, đường kính dài hơn dài mõm và khoảng cách
gian ổ mắt. Đường kính mắt 5.57 - 6.67 mm, dài mõm 5.01
- 6.19 mm, Gian ổ mắt
3.3 - 4.3 mm. Đồng tử ngang. Răng lá mía xuất hiện.
Chân trước: Dài cẳng chân 11.5 - 12.86 mm, dài bàn chân 18.55 - 20.94 mm. Ngón chân
có đĩa vát cụt, không có màng bơi. Công thức ngón I<IV<II<III.
Chân sau: Dài đùi 19.3 - 22.28 mm. Dài ống chân 19.94 - 21.97 mm. Các ngón có màng
bơi và đĩa phình lớn. Củ bàn chân trong thấp, hình bầu dục, chiều dài 1.97
- 2.2
mm. Củ bàn chân ngoài tiêu biến.
Da lưng và chân nổi hột. Hông sườn có nốt sần. Bụng mượt. Mặt lưng của đầu và
thân có màu nâu hạt ô-liu, có đốm đen xếp thành hình mạng lưới xung quanh nốt
sần màu ô-liu. Hông sườn có nốt sần màu ô-liu. Chân có dấu chéo màu đen. Bụng
trắng. Họng và ngực có đốm đen.
Sinh học, sinh thái:
Sống ở ven bờ suối đá trong rừng thường xanh cây gỗ cứng và cây bụi
ở độ cao 1.200m trở lên. Thức ăn là các loài côn trùng, ếch nhỏ, nòng nọc của loài
khác sống trong khu vực phân bố. Thường gặp vào đầu mùa mưa hàng năm chúng kết
đôi, đẻ trứng ở các khu vực nước chảy chậm. Vòng đời biến thái hoàn toàn của
chúng cũng trải qua các giai đạn giống như các loài lưỡng cư khác là dưới nước
và trên cạn.
Phân bố:
Loài đặc hữu ở Việt Nam, mới phát hiện
năm 1999 ở
Quảng Nam, Kontum, Gia Lai.
Mô tả loài: Phùng Mỹ Trung, Nguyễn
Quảng trường, Phạm Văn Cường - WebAdmin.