Loài
lưỡng cư có kích thước lớn, dài thân 52.3 - 60.2 mm ở
con đực và 84.5 mm ở con cái. Đầu dài hơn rộng. Mõm ngắn, nhô ra ở góc nhìn
nghiêng, hơi dài hơn đường kính mắt. Tuyến mang tai phát triển, dài gấp hai lần
rộng.
Màng nhĩ không rõ. Răng lá mía tiêu biến, lưỡi tròn ra phía sau. Ngón chân
trước không có màng bơi, công thức ngón II < I = IV < III. Đầu ngón chân tròn.
Con đực có mu gan bàn chân yếu ở ngón số I. Đầu ngón cái tròn, có màng bơi. Công
thức ngón bàn chân sau: I 1/4 - 3/4 II 1/4 - 1 III 1/2 - 11/2 IV 11/2 - 0V. Khớp ống cổ
chân chạm mắt. Mặt lưng của đầu mịn, màu đen có nốt sần nhỏ. Nếp lưng bên có hai
dãy mụn lớn hơn. Mặt trên của chân trước và chân sau có củ sần. Hông sườn có mụn
thô, có gai nhọn dạng sừng đen. Mặt bụng của bụng, chân trước và chân sau nổi
hột. Mặt lưng của đầu, thân và chân màu xám nâu có những đường sọc sáng và tối.
Hông sườn màu đen xám, có vệt trắng. Mặt bụng màu xám sáng có đốm thâm Con cái
trưởng thành ở Việt Nam có kích thước to hơn ở Trung Quốc. (Dài thân 84.5mm ở
Việt Nam và 80 mm ở Trung Quốc), nhưng con đực lại nhỏ hơn mẫu của Trung Quốc
(Dài thân 52.3 - 60.2 mm ở Việt Nam và 57.0 - 61.0 mm ở Trung Quốc).
Sinh học, sinh thái
Sống ở các khu vực ven các con suối chảy ở độ từ 960
đến 2025m, thức ăn là những loài
côn trùng, giáp xác sống trong khu vực và cả các loài giáp cá, ếch nhỏ. Đẻ
trừng dưới nước vào những cơn mưa đầu mùa, nòng nọc phát triển giống như các
loài lưỡng cư có
vòng đời biến thái hoàn toàn khác.
Phân bố:
Thế giới: Trung Quốc, thuộc khu vực Huang Lian Shan,
Nam Vân Nam.
Việt Nam: Lào Cai (Sapa). Loài mới được ghi nhận ở
Việt Nam năm 2023.