Cá cóc quảng tây: Kích thước trung bình trong nhóm
Cá cóc
Paramesotriton sp. nhỏ hơn Cá cóc tam đảo Paramesotriton deloustali.
Chiều dài toàn thân từ 12,5
- 14,0cm ở cá thể
đực và khoảng 13,4cm ở cá thể cái. Thân mập mạp và khá phẳng. Mõm bằng. Nếp gấp ở môi khá phát triển. Đầu
phẳng, hình tam giác, chiều dài lớn hơn chiều rộng. Khi gập chi trước và chi sau
vào nhau, các ngón chân vừa chạm sát nhau. Da có các nếp nhăn nhỏ. Sống lưng nhô
cao, kéo dài đến đuôi. Chiều dài đuôi ngắn hơn chiều dài thân, mút đuôi mỏng. Lỗ
huyệt nổi rõ, đặc biệt dễ dàng quan sát ở các cá thể đực trong mùa sinh. Mặt
trên màu nâu sẫm, mặt dưới có màu đen với các đốm màu vàng hoặc cam không đều
khác với
Cá cóc tam đảo Paramesotriton deloustali.
Đường vây dưới đuôi màu vàng và nhạt dần về phía mút đuôi. Cá thể cái có màu
nhạt hơn.
Sinh học, sinh thái:
Cá cóc quảng tây là loài chủ yếu
hoạt động về đêm. Săn mồi,
con mồi
chủ yếu là các loài côn trùng nhỏ và giun đất. Trong điều kiện nuôi nhốt, loài
này hoạt động mạnh từ tháng 2 đến tháng 9, ban ngày ít hoạt động, thường ẩn mình
dưới khe đá trong nước. Chúng cũng ít hoạt động vào thời gian mùa đông. Đặc biệt,
loài Cá cóc quảng tây còn được ghi nhận có
tập tính tự vệ bằng cách cuộn tròn
thân và đuôi, chân gập sát thân khi bị đe dọa. Trong điều
kiện nuôi nhốt, mùa sinh sản của loài Cá cóc quảng tây vào từ tháng 12 đến tháng
3 năm sau. Trứng đẻ trên cạn, trong các hốc đá ven mặt nước. Nòng nọc màu đen
với mang màu vàng. Vây dưới đuôi màu trắng. Mút mõm và mống mắt có màu trắng
vàng. Mặt dưới cơ thể nòng nọc có màu đen với các mảng trắng không đều. Loài Cá cóc quảng tây thường sinh sống ở các suối có độ dốc thấp dưới các
tán rừng rậm hoặc cây bụi. Chúng ẩn mình dưới các tảng đá dưới lòng suối hoặc
trong những bụi cỏ ven suối. Sau các cơn mưa lớn, có thể phát hiện chúng ở trên
cạn cách suối từ 0.5 - 1m.
Phân bố:
Cá cóc quảng tây được ghi nhận đầu tiên ở
tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc ở độ cao khoảng 470m so với mặt nước biển.
Ở Việt
Nam, loài này được ghi nhận tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.