Mai
ngắn rộng, mai có màu xanh thẫm, khi còn nhỏ sống lưng thường nổi cao, khi lớn mai
vồng cao. Trên mai có từ 5 đến 9 đôi tấm vảy (thường là từ 6 đến 8 đôi), không
đối xứng. Chiều dài thẳng mai khoảng 72cm. Đầu rộng, phía trước mũi có dạng tam
giác, chiều rộng đầu khoảng 13cm, phía
trước mũi có 2 đôi tấm vảy. Trên mỗi chân bơi có 2 móng vuốt sắc nhọn, vuốt thứ
2 bị tiêu biến ở chân bơi trước. Khi còn bé, rùa con có màu xám, sau đó chuyển
dần sang màu vàng tối ôliu đến màu xanh. Phía dưới bụng vàng kem. Viền ngoài yếm
có 4 đôi tấm xương, trên mỗi tấm có một lỗ nhỏ ở gần mép lề sau. Rùa trưởng
thành có trọng lượng khoảng từ 35 đến 50kg.
Sinh học - Sinh thái:
Là loài có kích thước nhỏ trong các loài rùa biển, chiều dài trung bình 70cm. Đẻ
trứng vào tháng 3 - 6, mỗi lần đẻ 170 - 200 trứng, đường kính trứng trung bình
4cm.Các ổ
trứng sâu 40 - 50cm, thời gian ấp trứng là 55 - 60 ngày, tùy thuộc vào thời tiết
mỗi năm. Giới tính của rùa con được
quyết định bởi nhiệt độ môi trường.
Loài này thích sống ở bãi biển ưa thích là các bãi cát ven bờ và các đảo, thường ở gần các
cửa sông.
Nhìn chung sống gần bờ, vùng cát, vùng triều, vùng khơi, ven đảo.
Phân bố:
Trong nước: Được phân bố ở khắp các vùng biển. Các tỉnh ven biển Việt Nam.
Thế giới: Đông Thái Bình
Dương (Baja California và Srilanoa, Mexico đến Côlômbia) nam Đại Tây Dương
(Guyana đến Brazin và Tây Phi), bắc biển Ấn Độ (nhất là Orissa Ấn Độ) và Tây
Thái Bình Dương (Malaixia và Thái Lan).
Giá trị:
Thịt dùng làm thực phẩm, xương, da làm các đồ mỹ nghệ. Gần đây được chú ý sử
dụng cho các mục đích không tiêu dùng như: tham quan, du lịch, học tập, nghiên
cứu khoa học.
Tình trạng:
Trước năm 1980 gặp phổ biến ở các vùng biển Việt Nam, nhưng nguồn lợi đó đang bị
đánh bắt quá mức, bằng nhiều hình thức mang tính huỷ diệt. Đặc biệt từ năm 1990
đến nay nguồn lợi này bị suy giảm một cách nghiêm trọng, do đánh bắt và môi
trường ô nhiễm. Dự đoán số lượng giảm >50%, hiện còn khoảng 1000 cá thể trưởng
thành.
Phân hạng:EN A1d.
Biện pháp bảo vệ:
Biện pháp hành chính:
Truyền thông đại chúng qua báo chí, đài, đưa vào Luật Thuỷ sản Việt Nam. Biện
pháp kỹ thuật (hiệu quả): ấp trứng tự nhiên và nhân tạo; thả rùa ra biển.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 251.