New Page 1
ẾCH CÂY CỰA
Rhacophorus calcaneus
Smith, 1924
Rhacophorus
chuyangsinensis
Orlov et al., 2012
Họ: Chẫu cây Rhacophoridae
Bộ:
Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận
dạng:
Đầu hầu như dài bằng rộng. Mõm hơi nhọn ở góc nhìn lưng, nhọn và và hơi nhô ra
khỏi hàm ở góc nhìn ngang. Mũi tròn và gần mút mõm hơn mắt. Khoé mắt rõ. Đường
kính mắt gấp 0.7 - 0.9 lần chiều dài mõm. Vùng gian mắt phẳng, rộng hơn khoảng
cách gian mũi và bằng hoặc nhỉnh hơn chiều rộng mí mắt trên. Màng nhĩ tròn,
không nhướng lên vùng thái dương, có vành tai. Đường kính màng nhĩ bằng 0.4 -
0.5 lần đường kính mắt, khoảng cách giữa mắt và màng nhĩ gấp 0.3 - 0.4 lần đường
kính màng nhĩ. Nếp da trên màng nhĩ rõ, chạy từ sau mắt đến ngang mức của nách.
Lỗ huyệt nhỏ, tròn. Khoang mũi hầu nhỏ, tròn. Răng lá mía gộp thành hai hàng
xiên, bắt đầu gần mép trước của mùi hầu, gần khoang mũi hầu hơn gần lẫn nhau.
Lưỡi chẻ đôi ở chót rìa. Các chân mảnh. Mối quan hệ tương quan chiều dài các
ngón chân trước I<II<IV<II<V<III. Sọc sáng mỏng chạy dọc theo các khoé mắt từ
mút mõm đến giữa mắt. Hông sườn, mặt trước và sau của chân màu vàng đến da cam.
Nách, háng, mặt trước của cẳng chân trước và sau, mặt sau của đùi có vệt đen lớn
với kích thước và hình dạng khác nhau. Những đốm này đôi khi được bao quanh bởi
màu xanh sáng và rõ hơn ở con cái. Màng bơi ở giữa các ngón chân trước và sau có
màu vàng đến cam. Phần sau huyệt màu trắng. Phần dài, nhô ra ở gót cùng màu với
mặt lưng của đùi hoặc vàng. Tròng mắt ngang, màu đen. Con ngươi màu nâu, nhạt
thành đỏ cam ở trên và phần dưới, được bao quanh bởi một vòng tròn đen ở trong
và xanh lam ở ngoài. Lưng của một số con đực màu nâu đỏ, có hai sọc lưng bên màu
vàng trải từ góc sau của mắt đến háng và một sọc màu vàng thứ ba chạy từ nửa sau
lưng đến huyệt.
Sinh học, sinh thái:
Loài này sống ở trên cây cạnh con suối chảy hay các khu vực hố nước đọng vào mùa
mưa ở độ cao trên 1.500m - 2.000m trong các khu rừng nguyên sinh còn tốt. Thức
ăn là các loài côn trùng, ếch nhỏ, nòng nọc của loài khác sống trong khu vực
phân bố. Thường gặp vào đầu mùa mưa hàng năm, chúng kết đôi, đẻ trứng ở các khu
vực nước chảy chậm. Vòng đời biến thái hoàn toàn của chúng cũng trải qua các
giai đạn giống như các loài lưỡng cư khác là dưới nước và trên cạn.
Phân bố:
Trong nước: Loài đặc hữu Việt Nam và được phát hiện ở Vườn quốc gia Chư Yang
Sin, các huyện Krông Bông, Lăk, tỉnh Đăk Lăk. Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, Lâm
Đồng, Đỉnh Langbian, Lâm Đồng, Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà, Khánh Hòa.
Nước ngoài: Chưa có dẫn liệu
Mô
tả loài: Phùng
Mỹ Trung, Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường - WebAdmin.