CÓC MÀY SAPA
CÓC MÀY SAPA
Leptobrachium chapaense
(Bourret, 1937)
Họ: Cóc bùn
Megophryidae
Bộ: Không đuôi
Anura
Đặc
điểm nhận dạng:
Loài
lưỡng cư có kích thước
trung bình, con đực 53,5 - 65,5 mm, con cái 58,7 - 79,9mm. Lưng màu nâu sẫm với
những đốm màu da cam bên mông, sườn và các chi. Mặt dưới các chi đen với những
đốm và vệt trắng ở đùi và gót chân. Bụng xám với các vết màu trắng khá rõ, ngực
và họng lốm đốm đen trắng. Tuyến nách ở sau khớp cánh tay. Đầu nhỏ rộng, dẹt,
màng nhĩ nhỏ bằng ½ đường kính mắt. Mắt lồi, đường kính mắt bằng dài mõm. Nửa
trên con người màu trắng. Ngón tay dài, đầu các ngón có màu trắng, không phình.
Màng chân chỉ có ở kẽ ngón. Củ bàn trong to, không có củ bàn ngoài.
Hình thái trong tự nhiên loài Leptobrachium chapaense rất giống với loài
Leptobrachium promustache.
Hai loài khác nhau ở
các đặc điểm sau:
Con đực của Leptobrachium
promustache có gai môi trên (không có ở loài Leptobrachium chapaense).
Màng nhĩ mờ ở loài Leptobrachium promustache nhưng rõ ở loài
Leptobrachium chapaense. Vệt sáng ở vùng ngực xuất hiện ở Leptobrachium
chapaense nhưng không có ở Leptobrachium promustache. Củ bàn chân
trong lớn, hình vòm, lớn hơn củ bàn chân ngoài ở loài Leptobrachium
promustache nhưng ở loài Leptobrachium chapaense thì kích thước hai
củ bàn chân gần như bằng nhau và dạng tròn. Tuyến đùi mờ ở Leptobrachium
promustache nhưng rõ ở Leptobrachium chapaense. Leptobrachium
promustache có màng bơi chân trước chạm đến củ đốt thứ hai của ngón thứ ba
trong khi màng bơi của loài Leptobrachium chapaense lại nằm ở vị trí đáy
của ngón thứ ba chân sau. Mõm của Leptobrachium promustache tròn và vùng
má nghiêng, còn mõm của loài Leptobrachium chapaense xén cụt hơn và vùng
má ít nghiêng hơn.
Sinh học, sinh thái:
Gặp ở các nơi suối chảy mạnh
trong rừng mưa hỗn giao, độ dốc lớn độ cao lên đến 400m (Tam Đảo) hoặc cao hơn
1.000m (Sapa). Tiếng kêu của loài này khá lớn, trước khi kêu lớn chúng thường một
con kêu và cả bầy đều đồng thanh kêu rất ồn ào. Loài này
sinh sản từ tháng 4
đến tháng 9 hàng năm. Trừng đẻ thành khối lớn, nhày và trong khoảng vài trăm
trứng màu xám đen bám vào các hốc, ngách ở các tảng đá chìm dưới mép nước.
Nòng
nọc khá lớn, đầu và bụng khá to có thể dài 40mm màu xám tím.
Phân bố:
Trong nước:
Miền Bắc Việt Nam
Hà Giang, Lào Cai,
Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Ninh Bình, Thanh Hoá, Huế (Bạch Mã).
Nước ngoài: Lào (Chiang Mai và
Tak), Thái Lan (miền đông bang Shan), Myanmar (dãy núi Hengduanshan), Trung Quốc
(ở miền Nam Vân Nam - Mạnh Tử, Cận Bình và Pingbian).
Mô tả loài:
Nguyễn Quảng Trường,
Phùng Mỹ Trung, Phạm Thế Cường - WebAdmin.