CÒ LẠO XÁM
CÒ LẠO XÁM
Mycteria cinerea
(Raffles, 1822)
Tantalus cinereus
Raffles, 1822.
Họ: Hạc Ciconiidae
Bộ: Hạc Ciconiiformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Chiều dài thân 92
- 97cm. Ngoài mùa sinh sản, bộ lông của con trưởng thành nhìn chung có màu
trắng, trừ
lông cánh sơ cấp, thứ cấp và lông đuôi có màu đen (quan sát rõ lúc chim bay
từ phía dưới cơ thể). Chim có da trần màu đỏ tối ở đầu (bao quanh gốc mỏ). Mỏ
vàng phớt tím, chân hồng tối. Bộ lông của con non có màu nâu nhạt, hơi có vằn ở
đầu và cổ.
Sinh học, sinh
thái:
Sống trong các
sinh cảnh có nước mặn vùng ven biển, rừng ngập mặn và những nơi gần đó, kiếm ăn
trên các bãi ngập triều, các vùng sình lầy, đồng thời cả trong các vùng nước
ngọt nội địa như tại các khu rừng ngập nước, đầm nuôi cá tôm, ruộng lúa. Tại
Inđônêxia, chúng là loài chim sống định cư chiếm ưu thế ở dải ven biển, ở
Cămpuchia, người ta gặp Cò lạo xám trong vùng rừng ngập lũ dọc hồ Tônglê Sáp,
vào mùa mưa từ nơi đây chúng lại bay toả đi đến các vùng khác.
Phân bố:
Trong nước: Trước
đây đã gặp ở Trung Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long (86, 108). Hiện nay chưa
tìm thấy lại trong các vùng phân bố cũ.
Thế giới: Thái
Lan, Cămpuchia, Malaixia và Inđônêxia .
Giá trị:
Loài chim nước cỡ
lớn, có hình dáng và màu sắc hấp dẫn.
Tình trạng:
Trước đây đã tìm
thấy ở Huế, Quảng Trị vào tháng 7 năm 1925, vật mẫu của con cái (01 mẫu) thu
được lúc đó hiện đang được lưu trữ ở Bảo tàng lịch sử tự nhiên Anh . Từ năm 1987
đến 1994, có một số thông tin, nhưng chưa được khẳng định chắc chắn như ghi
nhận sự có mặt của Cò lạo xám ở Cà Mau (Lê Đình Thuỷ và Lê Diên Dực, 1987; Lê
Diên Dực, 1993), và ở Vườn quốc gia Cát Tiên, tỉnh Đồng Nai (Morris, 1994). Từ
đó đến nay chưa có thông tin gì khác về sự hiện diện của loài này ở Việt Nam,
mặc dầu người ta đã phát hiện Cò lạo xám ở nước láng giềng Cămpuchia tại ít nhất
là 11 địa điểm khác nhau trong những năm gần đây. Trong nhiều năm qua, có thể
đã có nhiều tác động khác nhau của con người gây ảnh hưởng bất lợi đến vùng cư
trú thích hợp của Cò lạo xám ở nước ta.
Nhìn chung đối
với quần thể thế giới, mối đe doạ chủ yếu là sự mở mang đất canh tác nông
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chặt gỗ và các tác động liên quan. Săn bắt để lấy
thịt và buôn bán là mối đe doạ xuyên suốt vùng phân bố của chúng.
Phân hạng:
DD
Biện pháp bảo vệ:
Cò lạo xám được
ghi ở Phụ lục I của Công ước CITES. Vùng hồ Tông lê sáp là Khu bảo vệ sinh quyển
và là Khu RAMSAR (Khu bảo vệ đất ngập nước quốc tế) của Cămpuchia. Một số khu
bảo vệ Cò lạo xám được thành lập ở Inđônêxia (ở Xumatra, Java). Cần tiếp tục
công tác điều tra nghiên cứu trong các vùng phân bố của chúng, đẩy mạnh công tác
bảo vệ và giáo dục bảo tồn cho các cộng đồng địa phương.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.