BÒ BIỂN
BÒ
BIỂN
Dugong dugon
(Muller, 1776)
Trichechus dugong
Muller, 1776
Halichore dugong
Erxleben, 1777.
Họ: Cá cúi Dugongidae
Bộ:
Hải ngưu Sirenia
Đặc điểm nhận
dạng:
Cơ thể có dạng
mập tròn, mõm nhô ra như một khối thịt thừa.
Môi
trên có dạng móng ngựa, mang nhiều lông cảm giác. Lỗ thở ở trên và phía trước
đầu. Hai vây bơi nhỏ và ngắn; không có vây lưng; vây đuôi có dạng giống Cá heo:
lõm ở giữa tạo thành rãnh hình chữ V. Mắt tròn, nhỏ, màu thẫm và có nắp đậy. Tai
không vành mà chỉ là 2 lỗ nhỏ ở hai bên đầu. Da Bò biển có màu đồng hơi xám và
sáng dần về phía mặt bụng, con mới sinh hoặc còn nhỏ có màu nâu thẫm. Lông ngắn
và mảnh, phân bố lưa thưa trên lưng, phía bụng lông dài nhưng thưa hơn, mõm mang
nhiều lông và dày hơn. Lông xúc giác rất phát triển và nhạy cảm. Bò biển có lớp
mỡ dày như đối với các loài thú biển khác. Bò biển
có 06 cặp răng hàm, được xếp trên mỗi mặt của hai hàm và ngay gần lối vào của
miệng. Có 02 răng nanh ngắn, răng nanh chỉ mọc ở con đực trưởng thành hoặc ở con
cái già (trên 40 tuổi).
Sinh
học, sinh thái:
Bò biển
trưởng thành sinh dục ở độ tuổi 9 - 10 tuổi, nhưng có khi đến sau 17 tuổi, hoạt
động sinh dục của Bò biển xảy ra quanh năm, nhưng mùa sinh sản cao điểm từ tháng
6 - 9; con cái mang thai đến 13 tháng và chỉ sinh 01 con. Con con bú sữa mẹ và
sau vài tuần có thể gặm cỏ nhưng vẫn còn tiếp tục bú sữa mẹ cho đến 18 tháng
tuổi hoặc hơn. Tuổi tHọ: trung bình khoảng 70 tuổi.
Thức ăn chính là
cỏ biển, đôi khi ăn cả Thuỷ tức và Hải sâm.
Sống ở vùng nước
cạn ven bờ hoặc các hải đảo, nước ấm (18 - 32oC) và có nhiều cỏ biển.
Chúng có thể sống từng nhóm nhỏ hoặc từng đôi mẹ-con, nhưng cũng có khi thành
đàn đến vài trăm con và có tổ chức xã hội.
Phân bố:
Trong nước:
Vịnh Hạ Long, ven biển Khánh Hoà, Côn Đảo và Phú Quốc.
Thế giới: Vùng Ấn Độ -
Thái Bình Dương, trong vùng nước cạn ven bờ nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Giá trị:
Tình trạng:
Trước năm 1975,
Bò biển được ghi nhận ở vài nơi như vịnh Hạ Long, ven biển Khánh Hoà, Côn Đảo và
Phú Quốc. Nhưng hiện nay chỉ biết được chúng còn đang sống ở Côn Đảo với khoảng
hơn 10 con. Trong những năm gần đây do việc xây dựng các công trình ven biển,
khách du lịch gia tăng, làm quấy rối và thu hẹp nơi sinh sống, gây ô nhiễm môi
trường ... càng làm cho vùng phân bố và số lượng của Bò biển giảm sút. Hơn nữa
Bò biển có tốc độ sinh sản rất chậm, nên các nhà khoa học dự đoán rằng nếu không
có biện pháp bảo vệ hữu hiệu, Bò biển sẽ bị tuyệt chủng trong tương lai. Ước
tính diện tích phân bố trước năm 1990 khoảng 20.000km2, nhưng hiện
nay còn khoảng 1.000km2.
Phân hạng:
CR A1c,d D
Biện pháp bảo vệ:
Không săn bắt Bò
biển để lấy thịt hoặc làm thuốc. Đối với những vùng đã phát hiện chúng đang sống
( khu bảo tồn Vườn quốc gia Côn Đảo), nên có biện pháp bảo vệ tích cực và hạn
chế việc xây dựng các công trình ven biển, làm quấy rối và thu hẹp nơi sinh sống
của chúng và gây ô nhiễm môi trường ... .
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.