CÁ MẶT TRĂNG
Mola mola
( Linnaeus, 1758)
Mola
aculeata
Koelreuter, 1766
Diodon mola
Pallas,
1770.
Họ: Cá mặt trăng
Molidae
Bộ: Cá nóc
Tetraodontiformes
Đặc
điểm nhận dạng:
Thân
hình trứng, rất dẹp bên. Miệng rất nhỏ. Vây lưng và vây hậu môn ngắn nhưng rất
cao, gần như đối xứng nhau.
Vây đuôi dài nhưng thấp,
bao quanh cả phía sau thân, mép ngoài của vây hơi lượn sóng. Vây ngực rất nhỏ,
tròn. Da thô, mỏng, không phủ vảy, không có đường bên. Răng trên hàm gắn kết với
nhau thành tấm răng lớn.
Sinh học, sinh thái:
Cá cái chỉ có một buồng trứng chứa khoảng 300 triệu trứng. Thức ăn là các loại
rong, thuỷ mẫu, động vật giáp xác phù du, ấu thể cá chình. Chiều dài thân có thể
dài đến 5,5m, nặng 1400kg ( Andriaxep, 1954).
Cá mặt trăng phân bố trong các vùng biển nhiệt đới phía bắc và phía nam xích
đạo. Những ngày đẹp trời hay mưa to gió lớn, Cá mặt trăng cũng có những tập tính
như loài cá mặt trăng đuôi nhọn.
Phân bố:
Trong nước:
Vịnh Bắc Bộ (Bạch
Long Vỹ), Trung Bộ.
Thế giới:
Trung Quốc, Nhật Bản, Đông nam Á, Australlia, Ấn Độ, Xri Lanka, Đại Tây Dương.
Giá trị:
Có kích thước lớn, có giá trị khoa học và kinh tế. Tuy nhiên loài này rất ít
xuất hiện trong vùng biển nông, ở Việt Nam mới bắt gặp và thu được mẫu một lần ở
khu vực đảo Bạch Long Vỹ (Vịnh Bắc Bộ), thuộc loại quý hiếm, là vật mẫu hấp dẫn
ở các bảo tàng biển.
Tình trạng:
Là loài cá có số lượng rất ít và kích thước lớn nên dễ bị săn bắt. Dự đoán số
lượng quần thể dưới 250 cá thể trưởng thành.
Phân hạng: EN D.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam. Khuyến nghị cần thông báo cho nhân dân các
tỉnh ven biển cấm đánh bắt loài cá này khi phát hiện được chúng (chúng thường
nổi lên mặt nước).
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.