CÁ
CHIÊN
Bagarius rutilus Ng
et Kottelat,
2000
Bagrus
yarrelli
Pellegrin, 1907
Bagarius bagarius
Chevey
& Lemasson, 1937.
Họ: Cá chiên Sisoridae
Bộ: Cá nheo Siluriformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Cá cỡ lớn, thân
hình trụ, thon dài về phía đuôi. Đầu và thân trước dài, thô và dẹp bằng. Đầu
lớn, mút trước hình lưỡi cày. Mút mõm hình cung tròn. Miệng rộng, hình vòng
cung. Răng hàm nhọn, hình dùi. Có 4 đôi râu. Râu hàm gốc rộng bè, mút cuối kéo
dài thành sợi và chấm gốc
vây ngực. Mắt nhỏ ở đỉnh đầu. Khoảng cách 2 mắt rộng bằng. Lỗ mũi trước và
sau sát nhau. Vây lưng có gai cứng trơn nhẵn, khởi điểm gần vây mỡ hơn mút mõm.
Vây mỡ ngắn, khởi điểm trước hoặc trên vây hậu môn. Vây ngực mở rộng, tia gai
cứng phía sau có răng cưa yếu. Vây bụng có khởi điểm nằm phía dưới và sau gốc
vây lưng. Hậu môn gần
vây hậu môn hơn. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Mút sau vây ngực, vây lưng và vây
đuôi kéo dài thành sợi. Thân phủ da xù xì. Đường bên hoàn toàn. Cá có màu xám,
trên thân có một số vùng đen lớn rất đặc biệt.
Sinh học, sinh
thái:
Cá có khối lượng
tối đa đạt tới 50kg, thường gặp 3 - 7kg. Cá chiên ở sông Hồng sinh trưởng nhanh:
1 tuổi dài 14,1cm, 2 tuổi dài 62,3cm, 3 tuổi dài 77,5cm. 4 tuổi dài 90cm, 5 tuổi
dài 98,4cm và 6 tuổi dài 102cm. Cá chiên là loại cá dữ điển hình. Cá con cỡ nhỏ
hơn 15cm ăn chủ yếu là ấu trùng, côn trùng, tôm tép và cá con. Cá lớn thức ăn
chủ yếu là cá nhỏ và trung bình. Cá Chiên thành thục lúc 3 - 4 tuổi, khối lượng
từ 3 - 6kg. Mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng 6. Cá thường di cư lên trung và
thượng lưu các sông lớn, nơi nước chảy mạnh, đáy nhiều sỏi đá và độ sâu thích
hợp để đẻ trứng. Sức sinh sản tuyệt đối của cá từ 257.800 - 1.024.800 trứng. Cá
chiên đẻ trứng ở đáy, trong các hốc đá, trứng dính vào đáy hoặc tổ do bố mẹ đào.
Cá bố mẹ có tập tính bảo vệ trứng và cá con.
Phân bố:
Trong nước:
Các sông suối phía Bắc: Lào Cai, Yên Bái (sông Thao, sông Chảy), Hà Giang, Tuyên
Quang, Phú Thọ (sông Lô - Gâm), Cao Bằng, Lạng Sơn (sông Kỳ Cùng), Bắc Kạn (Na
Rì), Thái Nguyên (sông Cầu), Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình (sông Đà), Thanh Hoá
(sông Mã), Nghệ An (sông Lam) về phía nam tới sông Thu Bồn (Quảng Nam).
Thế giới:
Trung Quốc (Vân Nam), Lào, Thái Lan và Cămpuchia.
Giá trị:
Là loài cá có giá
trị kinh tế rất cao, thịt thơm ngon. Cá khai thác quanh năm, nhiều nhất vào
tháng 12 đến tháng 5 năm sau; đặc biệt trong mùa cá sinh sản. Sản lượng Cá chiên
tập trung nhiều ở trung lưu các sông lớn, đặc biệt là sông Hồng.
Tình trạng:
Nơi cư trú của Cá
Chiên bị thu hẹp trên 20% do xây dựng các hồ chứa thuỷ lợi và thủy điện hoặc các
công trình giao thông đường thủy. Nhiều bãi Cá chiên đẻ ở trung và thượng lưu
các sông lớn các tỉnh phía Bắc đã bị mất hoặc thu hẹp. Cá chiên có giá bán cao
nên bị đánh bắt quá mức để tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Phân hạng:
VU A1c,d B2a,b.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc V và danh sách các loài cần
bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Đã có quy chế bảo vệ và khai thác loài cá
này, cho phép đánh bắt Cá chiên có chiều dài trên 38cm, cấm đánh bắt trên bãi đẻ
từ tháng 2 - 5. Tuy nhiên, các quy chế vẫn chưa tới được các cơ sở. Cần nghiên
cứu kỹ hơn về loài cá này trên cơ sở đó xây dựng quy chế toàn diện cho việc
khai thác và bảo vệ hợp lý. Trước mắt là cấm triệt để việc khai thác bằng
xung điện, chất nổ, chất độc, cấm đánh bắt cá cỡ dưới 38cm; đặc biệt cấm nghề
câu Cá chiên con và đánh bắt cá bố mẹ trên các bãi đẻ. Đẩy mạnh việc nghiên cứu
cho Cá chiên đẻ nhân tạo, cung cấp giống nuôi và phục hồi nguồn lợi tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.