CÁ NGỰA BẮC
CÁ NGỰA BẮC
Tor
brevifilis
(Peters, 1880)
Barbus
brevifilis
Rendahl, 1928
Barbus
szechugnensis
Tchang, 1931
Labeobarbus
brevifilis
Lin, 1933
Tor (Folifer)
brevifilis
Hao & Van, 2001.
Họ: Cá chép Cyprinidae
Bộ: Cá chép Cypriniformes
Đặc
điểm nhận dạng:
Thân khá dày,
thon dài và dẹp bên.
Đầu
dài. Mõm nhọn. Có 2 đôi râu nhỏ và ngắn. Mắt lớn nằm chếch phía trên của đầu.
Khoảng cách 2 mắt rộng. Đỉnh đầu hơi lồi nhẵn. Vây lưng có khởi điểm trước khởi
điểm
vây bụng, tia đơn cuối hoá xương cứng, phía sau có răng cưa. Vây đuôi phân
thuỳ sâu. Hậu môn ở ngay sát
vây hậu môn. Vảy vừa phải. Đường bên hoàn toàn hơi cong về phía bụng, phía
sau ở giữa cán đuôi. Lưng màu xám đen, bụng màu trắng, các vây màu xám.
Sinh học, sinh
thái:
Cá sống ở tầng
giữa các sông suối có nước trong và chảy mạnh. Cá bơi lội hoạt bát, khoẻ mạnh,
thường lách qua các kẽ đá, dùng miệng hình loe co duỗi tự nhiên để đớp thức ăn
trên mặt các tảng đá. Thức ăn của cá chủ yếu là các động vật thân mềm. Trong ống
tiêu hoá có các động vật thân mềm như ốc trai, hến và côn trùng,
ấu trùng, giun ít tơ, tảo và mảnh vụn hữu cơ. Cá có kích thước khá lớn cỡ
lớn nhất đạt 6 - 7kg, thường đánh bắt được cỡ 0,5 - 1,6kg. Cá lớn nhanh, 1 tuổi
dài 19cm, 2 tuổi dài 29cm, 3 tuổi dài 40cm. Cá ngựa bắc thành thục khi 2 tuổi,
chiều dài 31,5cm. Mùa
sinh sản của cá vào tháng 2 - 4 hoặc tháng 5 - 6. Sức sinh sản lớn, cá dài
45cm, nặng 900g, có tuyến sinh dục ở giai đoạn IV nặng 50g, chứa 71.800 trứng.
Trứng có màu hơi xanh đường kính không đều.
Cá đẻ
nơi nước chảy xiết, đáy nhiều sỏi đá.
Phân bố:
Trong
nước: Các
sông suối miền núi phía Bắc: Lào Cai, Yên Bái (sông Thao, sông Chảy), Hà Giang,
Tuyên Quang, Phú Thọ (sông Lô-Gâm), Cao Bằng, Lạng Sơn (sông Kỳ Cùng), Bắc Kạn
(Na Rì) Thái Nguyên (sông Cầu), Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình (sông Đà), Thanh Hoá
(sông Mã), Nghệ An (sông Lam).
Thế giới:
Trung Quốc (Hồng Kông, Tứ Xuyên, Phúc Kiến, Quảng Đông và Vân Nam).
Giá trị:
Loài
này đặc trưng cho khu hệ cá vùng núi phía Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Cá có
kích thước lớn, có thể nhân giống nuôi thương phẩm..
Tình trạng:
Nơi sinh sống
giảm trên 20% do đắp đập hình thành các hồ chứa. Nhiều sông suối bị lũ ống, lũ
quét xảy ra liên tục nên vùng sinh thái, nơi ở và bãi đẻ của cá bị đảo lộn. Mặt
khác do thịt cá ngon, giá bán cao nên bị săn lùng quá mức; đặc biệt là khai thác
cá trên bãi đẻ trong mùa sinh sản. Sản lượng Cá ngựa bắc ở tự nhiên ngày càng
giảm sút nghiêm trọng cần được bảo vệ.
Phân hạng:
VU A1a,c,d B1a,b,c.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc V và danh sách các loài cần
bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Tuy nhiên các biện pháp bảo vệ vẫn chưa
được thực hiện ở cơ sở. Cần giảm cường độ khai thác, không đánh bắt cá trong mùa
vụ sinh sản, chống ô nhiễm các khu vực cư trú quan trọng của loài. Nghiên cứu
khoanh vùng các bãi đẻ, các vùng cư trú quan trọng để có biện pháp bảo vệ hữu
hiệu. Nghiên cứu việc tái tạo giống giúp bổ sung, phục hồi nguồn lợi tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.