CÁ MỊ
CÁ
MỊ
Sinilabeo graffeuilli
(Pellegrin & Chevey, 1936)
Varicorhinus graffeuilli
Pellegrin & Chevey, 1936
Labeo
graffeuilli
Mai
Đinh Yen, 1978.
Họ: Cá chép Cyprinidae
Bộ Cá chép - Cypriniforrmes
Đặc điểm nhận
dạng:
Cá cỡ lớn, thân
dài, mình dày và dẹp bên. Đầu dài vừa phải. Mõm tròn tầy, mút co kết hạch to và
tương đối đều. Miệng dưới, hình cong. Hàm dưới và môi dưới tách rời nhau bằng 1
rãnh sâu. Môi dưới hơi dầy, phía trước và phía trong chứa đầy các mấu thịt. Rãnh
sau môi dưới, hai bên rất sâu, phần giữa nông nhưng nối liền trái phải rõ ràng.
Hàm dưới phát triển, phía dưới phủ sụn. Có 2 đôi râu. Mắt hơi nhỏ, chếch phía
trên. Khoảng cách 2 mắt rộng hơi khum.
Màng
mang rộng, dày và nối liền với eo mang. Vây lưng có khởi điểm trước khởi điểm
vây bụng, không có tia gai cứng, viền sau hơi lõm. Hậu môn trước vây hậu môn 2
vây. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Vảy tương đối lớn. Vảy trước vây lưng lớn và phủ
thành hàng đều đặn. Vảy trước vây ngực nhỏ, ẩn dưới da.
Đường bên hoàn
toàn chạy giữa thân. Lưng xám sẫm, bụng vàng nhạt. Vây ngực, vây bụng có gốc
xám, ngọn vàng sẫm. Các vây khác xám nhạt.
Sinh
học, sinh thái:
Sống ở tầng đáy
vùng trung lưu và thượng lưu các sông suối lớn và các cửa ngòi, nơi có nước
chảy, trong và đáy có nhiều sỏi đá. Cá có kích thước lớn, cỡ lớn nhất có thể tới
6 - 7kg, thường khai thác được cá cỡ 1 - 2kg. Thức ăn chính của cá là các loài
rong rêu, tảo bám, chất hữu cơ mục nát. Cá mị thành thục sau 3 năm tuổi. Mùa
sinh sản của cá vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Bãi đẻ của cá là nơi nước chảy
mạnh, đáy có nhiều sỏi đá.
Phân bố:
Trong nước:
Các sông suối vùng trung lưu và thượng lưu sông Đà thuộc Lai Châu, sông Thao
thuộc Lào Cai, Yên Bái và sông Kỳ Cùng thuộc Lạng Sơn.
Thế giới: Chỉ có ở Việt
Nam.
Giá trị:
Cá mị là loài đặc
hữu ở vùng núi Bắc bộ. Cá có kích thước lớn,
sản lượng ở tự nhiên không nhiều, nhưng là loài cá quý, có triển vọng trở
thành đối tượng nuôi.
Tình trạng:
Cá mị có sản
lượng tự nhiên rất ít. Nơi sinh sống bị thu hẹp khoảng trên 50% do lũ ống, lũ
quét làm thay đổi vùng sinh thái, nơi cư trú và các bãi đẻ. Cá có kích thước lớn
thịt ngon nên bị săn bắt quá mức; đặc biệt là đánh bắt bừa bãi ở các bãi cá đẻ.
Theo ngư dân hầu như các vùng phân bố cũ không còn đánh bắt được Cá mị nữa. Cá
thuộc loại hiếm cần được bảo vệ.
Phân hạng: EN
A1 B1.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc V và danh sách các loài cần
bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có quy chế bảo
vệ và khai thác hợp lý loài cá này. Thông tư bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của Bộ
Thuỷ sản số 01/2000/TT-BTS ngày 28/4/2000 cũng không đề cập gì việc bảo vệ và
phục hồi loài cá này. Cần cấm đánh bắt Cá mị ít nhất trong 5 năm liên tục,
khoanh vùng các bãi đẻ để bảo vệ nghiêm ngặt. Chống làm ô nhiễm các sông suối,
nơi cư trú quan trọng của loài. Nghiên cứu nuôi dưỡng, cho đẻ nhân tạo, tái tạo
giống cung cấp giống nuôi và bổ sung phục hồi nguồn lợi tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.