CÁ RẦM XANH
CÁ
RẦM XANH
Sinilabeo lemassoni
(Pellegrin & Chevey, 1936)
Varicorhinus lemassoni
Pellegrin & Chevey, 1936
Altigena lemasoni
Mai
Đình Yên, 1978
Sinilabeo rendahli lemassoni
Ngũ
Hiến Văn 1977
Bangana
lemasoni
Kottelat, 2001.
Họ: Cá chép Cyprinidae
Bộ: Cá chép Cypriniformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Cá cỡ trung bình,
thân
dài dẹp bên. Đầu hơi ngắn. Mõm nhô, mút trước tầy tròn, có kết hạch to tròn.
Miệng dưới, hình vòng cung. Viền môi trên có khía tua nhỏ không rõ ràng. Viền
môi dưới có mấu thịt tròn nhỏ dầy. Hàm dưới phát triển, phủ sừng mỏng nhọn.
Có 2 đôi râu. Mắt tương đối lớn, chếch mé trên. Khoảng cách 2 mắt rộng. Vây lưng
có khởi điểm trước khởi điểm vây bụng, viền sau lồi hoặc hơi bằng. Hậu môn sát
gốc vây hậu môn. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Vảy thân vừa phải, phần ngực nhỏ, trước
vây lưng thay đổi không thành hàng.
Đường bên hoàn
toàn ở giữa thân. Thân màu xám, bụng hồng nhạt, các vây xám nhạt.
Sinh học, sinh
thái:
Cá sống ở đáy và
kề đáy, nơi nước trong chảy, đáy nhiều sỏi đá và rong rêu ở trung và thượng
nguồn các sông. Cá xuất hiện nhiều vào mùa đông (mùa cá đẻ), còn các mùa khác
ít. Cá có cỡ lớn nhất là 6 - 7kg, thường thấy 1 - 2kg. Cá lớn nhanh trong 2 năm
đầu: 1 tuổi dài 30,5cm, 2 tuổi dài 42cm, 3 tuổi dài 49cm và 4 tuổi dài 56cm.
Thức ăn chủ yếu là các loài tảo bám đáy, mùn bã hữu cơ và một số động vật không
xương sống cỡ nhỏ. Cá thành thục vào năm thứ 2 với chiều dài 38,5 cm. Mùa sinh
sản từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Cá nặng 2100 kg chứa 37000 trứng. Bãi đẻ là
nơi nước chảy xiết, đáy nhiều sỏi đá. Khi đẻ cá thường tập trung thành đàn lớn,
vào ban đêm khi nhiệt độ thấp.
Loài này rất dễ nhần lẫn với Cá anh
vũ
Semilabeo obscurus. Sự khác biệt dựa trên
các đặc điểm về hính thái để phân biệt như sau:
Sinilabeo lemassoni: Vây lưng hình rẻ quạt, thuôn đều,
chóp vây lưng ngắn,
vẩy có ánh
xanh, ở phần miệng cá có chóp nhọn, môi mỏng, phía trong miệng không có gai, râu
cá ngắn và nhỏ.
Semilabeo obscurus: Vây lưng cong hình lưỡi liềm, chóp vây lưng dài,
vẩy và vây
lưng có ánh đỏ, ở phần miệng cá bẹt hơn,
môi rất dày, phần môi trong có gai,
râu dài sát miệng.
Phân bố:
Trong nước:
Lào
Cai, Yên Bái (sông Thao, sông Chảy), Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ (sông Lô -
Gâm), Cao Bằng, Lạng Sơn (sông Kỳ Cùng, sông Bằng Giang), Thái Nguyên (sông
Cầu), Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình (sông Đà), Thanh Hoá (sông Mã), Nghệ An (sông
Lam), Quảng Nam (sông Thu Bồn) và Quảng Ngãi (sông Trà Khúc).
Nước ngoài:
Trung Quốc
(Vân Nam).
Giá trị:
Cá có giá trị
nghiên cứu khoa học và có triển vọng trở thành cá nuôi.
Tình trạng:
Nơi cư trú bị thu
hẹp trên 20% do xây dựng các đập hình thành các hồ chứa. Nhiều sông suối bị lũ
ống, lũ quét nên vùng sinh thái, nơi ở và bãi đẻ bị đảo lộn. Cá thịt ngon, có
giá trị kinh tế cao nên bị săn lùng nhiều. Qua khảo sát 6 điểm thuộc vùng Đông
Bắc (9/2001) chỉ thấy trên sông Gâm từ Nà Hang trở lên có nhiều Cá Rầm xanh, còn
các nơi khác ít. Mùa khai thác từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, cỡ cá từ 0,5 -
1,5kg/con. Hiện nay số lượng cá giảm sút quá mức, cần được bảo vệ.
Phân hạng:
VU A1c,d B2a,b.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc V và danh sách các loài cần
bảo vệ của ngành Thuỷ sản trước năm 1996. Nhưng chưa có quy chế bảo vệ và khai
thác hợp lý loài cá này. Thông tư của Bộ Thuỷ sản số 01/2000/TT-BTS ngày
28/4/2000 cho phép đánh bắt cá rầm xanh từ 49cm trở lên, không thấy các biện
pháp khác. Cần giảm cường độ khai thác cá rầm xanh, đặc biệt cấm đánh bắt trên
các bãi đẻ. Trong thời gian cá đẻ, chỉ khai thác cỡ 0,5 kg trở lên. Cần nghiên
cứu kỹ hơn loài cá này, khoanh vùng cấm, các bãi đẻ, bãi vỗ béo của cá con để
xây dựng quy chế bảo vệ và sử dụng hợp lý, tạo nguồn giống phục vụ nuôi và bổ
sung phục hồi nguồn lợi tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật - trang 31.