CÁ MĂNG SỮA
CÁ MĂNG SỮA
Chanos chanos (
Forskal, 1775)
Lutodeira chanos
Ruppell, 1828.
Họ: Cá măng biển Chanidae
Bộ: Cá trích Clupeiformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Thân hình thoi
dài, dẹp bên, phủ vảy tròn nhỏ mỏng. Màng mỡ mắt dầy, che kín mắt.
Miệng trước, hàm không có răng. Gốc vây lưng và vây hậu môn có vảy bẹ (ôm
gốc vây); gốc vây ngực và vây bụng có vảy nách; gốc vây đuôi có 2 vảy đuôi dài.
Có một vây lưng, vị trí gần như ở giữa thân; vây bụng ở ngang dưới vây lưng; vây
đuôi xẻ thành 2 thuỳ dài nhọn. Hậu môn ở phía dưới
vây lưng. Mặt lưng màu xanh thẫm, lườn và bụng màu trắng; mép vây lưng và
vây hậu môn màu đen, gốc vây ngực và vây bụng màu đen.
Sinh học, sinh
thái:
Mùa sinh sản
tháng 4 - 7. Cá
đẻ trứng nổi ở vùng biển gần bờ, trứng phôi trôi dạt vào vùng nước nông ven
bờ. Cá bột mới nở theo các bọt nước vào các đầm phá nước lợ, cả thời kỳ cá con
sống ở đây, trong đầm nuôi sau một năm cá đạt trọng lượng 0,3 - 0,5kg. Cá bố mẹ
thành thục sinh dục lúc 5 - 6 tuổi dài khoảng 100cm, nặng trên 10kg, có thể đẻ
hàng triệu trứng. Thức ăn của cá chủ yếu là rong lam kết thành khối nổi trên mặt
nước và mùn bã hữu cơ. Cá măng biển là loài cá biển, có thể sống ở độ muối 30 -
40%. Tuy vậy, giai đoạn phôi và cá con lại sống ở vùng nước lợ ven biển, thường
ở trong các đầm phá.
Phân bố:
Trong nước: Dọc
ven biển từ Nghệ An đến Bình Thuận, nhưng tập trung nhất là từ Bình Định đến
Khánh Hoà.
Thế giới: Phân bố rộng
rãi nhất ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, phía đông đến Polynesia, phía tây đến
Hồng Hải và đông Châu Phi, nam đến Xri Lanka và Ôxtrâylia, phía bắc đến Nhật
Bản.
Giá trị:
Có giá trị thực
phẩm, thịt cá tươi rất thơm ngon, được ưa chuộng ở trong nước và nước ngoài. Là
đối tượng nuôi ở các đầm phá ven biển miền Trung từ Quảng Trị đến Bình Thuận.
Nhiều nước ở Đông nam Á cũng có nghề nuôi cá măng biển. Tuy nhiên việc khai thác
cá măng biển tự nhiên rất ít bắt gặp.
Tình trạng:
Mặc dù cá măng
biển đẻ nhiều nhưng mức độ tử vong cao ở giai đoạn phôi và cá con, do cường độ
đánh vớt cá con rất lớn ở các vùng ven biển trong các đầm phá và tình trạng ô
nhiễm ngày càng tăng ở vùng biển gần bờ. Do đó các thành phẩm trong các đầm nuôi
rất ít. Dự đoán số lượng trong 10 năm tới giảm ít nhất 20%.
Phân hạng:
VU A2d.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam. Cần tiến hành nghiên cứu nuôi cho đẻ nhân tạo, sản xuất cá
giống, nuôi cá thịt. Cần giảm bớt cường độ đánh vớt cá bột và cá con có chiều
dài dưới 20cm.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.