BÁCH TÁN ĐÀI LOAN KÍN
BÁCH TÁN ĐÀI LOAN KÍN
Taiwania
cryptomerioides
Hayata, 1906
Taiwania flousiana
Gaussen, 1939
Taiwania yunnanensis
Koidz., 1942
Họ: Bụt mọc Taxodiaceae
Bộ:
Hoàng
đàn
Cupressales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ to, có thể cao đến hơn 30 m
với đường kính thân đến hơn 1 m; vỏ thân dầy khoảng 1 cm, màu xám nâu, nứt thành
các mảnh dài không đều, thịt vỏ màu nâu đỏ, có nhiều sợi dai; tán thường hình
nón hẹp. Lá có hai loại: trên cành già trung bình 8 - 10 lá/cm, dài 5 - 6 mm,
rộng 1,2 - 1,4 mm, hơi bị ép ở 2 bên, mặt cắt ngang có 4 mặt rõ, nhỏ đi rõ rệt ở
gốc của nón cái, chỉ dài 1,5 - 2 mm, rộng 1,2 mm, hình vẩy tam giác với 3 mặt;
trên cành non và cây non có 10 - 14 lá/ cm, màu lục nhạt, dài 12 - 15 cm, rộng
1,2 - 1,5 mm. Nón đực mọc chụm 2 - 7 ở đầu cành; mỗi nón có 10 - 36 vẩy, mỗi vẩy
có 2 - 3 túi phấn. Nón cái có kích thước 1 - 1,8 x 0,8 - 1 cm, thường có 18 - 25
vẩy; các vẩy ở gần gốc lớn nhất, càng về chóp càng nhỏ đi rõ rệt, nửa trên
thường hình bán nguyệt với mũi ở giữa hình tam giác ngắn tù đầu, nửa dưới thót
dần ở hai bên, cuối cùng thành móng. Hạt thuôn dài và dẹt, màu nâu sẫm, dài 3
cm, rộng 1,5 mm; cánh màu nâu nhạt, bao quanh hạt, lõm sâu ở 2 đầu, dài 6 - 7
mm, rộng 4 - 4,5 mm.
Sinh học, sinh thái.
Vào đầu tháng 10 nón cái và hạt chưa
già; có lẽ hạt chín và được phóng thích vào tháng 11 - 12. Rất ít khi thấy vẩy
cái mang hạt và rất ít khi gập cây mạ hay cây con tái sinh trong rừng. Thường
gặp trong các đám rừng nhỏ còn sót lại ở khe giữa 2 sườn núi, ven suối nơi có độ
dốc cao, ở độ cao 1.900 - 2.100 m.
Phân bố:
Trong nước: Lào
Cai (Văn Bàn: Liêm Phú, sườn đông bắc của dãy núi Tà Xa, thượng nguồn lưu vực
Nậm Qua, 21056’ B, 104019’ Đ, ở độ cao khoảng 2.000 - 2.100 m), Yên Bái (Mù Căng
Chải
Nước ngoài: Bắc
Mianma (thượng nguồn các sông Irivandi và Xalaoen) qua phần lục địa của nam và
trung Trung Quốc (từ đông nam Tây Tạng và tây Vân Nam đến đông nam Quý Châu,
đông nam Tứ Xuyên và tây nam Hồ Bắc) đến đảo Đài Loan.
Giá trị:
Gỗ dễ chế biến, dùng để xây dựng,
đóng bàn ghế, làm cầu và đóng thuyền cũng như sản xuất bột giấy; đặc biệt trước
đây đã được xuất khẩu từ Mianma sang phía đông Trung Quốc dùng làm quan tài cho
nhà giầu, từ đó mới có tên gọi là Chinese coffin tree. Tại bản Lùng Cúng, Mù
Căng Chải gỗ dùng để lợp nhà. Có thể dùng để phục hồi rừng, đôi khi trồng làm
cảnh.
Tình trạng:
Loài này mới chỉ được phát hiện ở
một khu rừng nhỏ sót lại với số lượng cây rất ít, gồm các cây có kích thước lớn
và hầu như không thấy cây con hay cây mạ tái sinh (một trong các nguyên nhân
trực tiếp là do rất ít hạt được hình thành), trong khi toàn bộ thảm rừng tự
nhiên nguyên thuỷ ở xung quanh đã bị chặt hết để làm nương rẫy và vẫn tiếp tục
chịu lửa rừng hàng năm. Đang ở mức bị tiêu diệt trầm trọng; căn cứ vào độ suy
giảm quần chủng 80% trong 3 thế hệ của quá khứ, do quan sát trực tiếp, có khu
phân bố nhỏ hơn 100 km2, nơi sống nhỏ hơn 10 km2, chỉ tồn tại ở một điểm, quần
chủng rất nhỏ, ít hơn 50 cá thể, tập trung trong một tiểu quần chủng.
Phân hạng:
CR A1a, B1, C2b, D1. (Theo A. Farjon (1998) loài này xét trong toàn bộ
khu phân bố trước đây được xếp ở mức sắp bị tuyệt chủng - VUA1d).
Biện pháp bảo vệ:
Loài có trong
Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý
hiếm (nhóm 1) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ để
nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Đề nghị nghiên
cứu kỹ về sinh học, sinh thái, phân bố để tổ chức phát triển đối tượng này nhằm
bảo tồn nguồn gen phục vụ cho việc trồng rừng tại các vùng sinh thái thích hợp.
Nên thành lập khu bảo tồn loài tại xã Liêm Phú, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
Tài liệu dẫn: Sách
đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 512.