CÚC GAI
CÚC GAI
Cirsium leducei
(Franch.) Lévl. 1915.
Cnicus leducei
Franh. 1897.
Họ: Cúc
Asteraceae
Bộ: Cúc Asterales
Đặc điểm nhận dạng:
Cỏ lâu năm, thẳng đứng, cao 0,3-1 m, toàn thân
phủ lông cùng lông đốt. Lá rất biến hình, từ bầu dục, bầu dục thuôn dài đến hình
dải, dài 4-10 cm, rộng 1-3 cm; phiến lá xẻ nông hoặc xẻ sâu dạng lông chim, mỗi
bên phiến xẻ 3-5 đôi; mép có xẻ răng cưa; 2 mặt lá khác nhau: mặt trên phủ lông
dầy hay thưa, mặt dưới phủ lông nhung dầy mầu trắng tro. Cụm hoa đầu trên đỉnh
thân hoặc đỉnh nhánh, thường chỉ 1, không hợp thành tán; lá bắc tổng bao dạng
chuông, đường kính 2-2,5 cm gồm 6 lớp xếp lợp dạng ngói, dài từ 1-16 mm, càng
vào phía trong thì kích thước càng dài, đỉnh gai nhọn dài; hoa nhỏ, tất cả đều
là hoa ống, tràng dài 1,9 cm, mầu nâu gụ, đỉnh xẻ sâu thành 5 thuỳ không bằng
nhau. Quả bế hình dải ép dẹt dài 3 mm, rộng 2 mm, vỏ mầu nâu nhạt, có vân dọc;
mào lông trên đỉnh quả nhiều lớp hợp thành vòng ở gốc, riêng mào long dạng lông
chim tới 1,5 cm.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa và quả tháng 9-12. Tái sinh bằng hạt.
Cây ưa sáng, thường mọc ở các trảng cỏ, bãi cỏ ven rừng thưa trên núi đá, ở độ
cao 1300-1800 m, có khí hậu á nhiệt đới vùng núi.
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai (Sapa), Sơn La (Mộc Châu),
Hà Giang (Đồng Văn, Phó Bảng).
Thế giới: Trung Quốc (Vân Nam), Lào.
Giá trị:
Đồng bào H’Mông ở Hà Giang thu hái về làm thuốc
giải độc và chữa rắn cắn. Cây có dáng và cụm hoa to đẹp có thể đưa về thuần hoá
trồng làm cây cảnh.
Tình trạng:
Phân bố rất hẹp. Mới chỉ gặp ở một vài điểm phân
bố thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Môi trường sống bị xâm hại do nạn phá
rừng, mở mang đất canh tác. Thường xuyên bị khai thác làm thuốc (đào lấy rễ củ).
Phân hạng: EN
A1a,c, B1+2c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Cần điều tra xác định một điểm có cây mọc tương
đối tập trung, khoanh để bảo vệ. Thu thập hạt hoặc cây con và trồng ở các vườn
thuốc với mục đích bảo tồn.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam – Phần thực vật – Trang 245.