CHÒ ĐEN
CHÒ
ĐEN
Parashorea stellata
Kurz, 1870
Shorea stellata
(Kurz) Dyer, 1875
Parashorea
poilanei
Tardieu, 1942
Họ:
Dầu Dipterocarpaceae
Bộ:
Bông Malvaceae
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây gỗ lớn thường xanh, cao 30 - 35 m; thân
thẳng hình trụ, đường kính 80 - 100 cm. Tán hình cầu, phân cành muộn (20 - 25
m). Vỏ màu nâu đen, nứt dọc, giống như vỏ của Sao đen. Cành cong, vặn, cành non
mảnh, màu nâu hồng có lông hình sao, sau nhẵn.
Lá hình bầu dục - thuôn, dài 15 cm, rộng 6
cm; khi già lá nhỏ hơn; gân bên 9 - 11 đôi, nổi rõ ở mặt dưới. Lá kèm cong, sớm
rụng, dài 6 mm. Cụm hoa ở ngọn, dài 8 cm. Đài hơi bị lợp. Nhị 15, xếp thành 2
hàng. Quả 5 cánh, dài 8 - 9 cm, gần bằng nhau.
Sinh học, sinh
thái:
Mùa hoa tháng 4 -
6, quả tháng 8 - 10. Ưa ẩm và
ưa nơi sáng. Mọc trên sườn núi đất feralit
vàng, có tầng dày. Loài ưu thế ở tầng cao. Tái sinh rất tốt, hạt dễ nảy mầm,
chịu bóng. Mọc ở độ cao 300 - 800 m.
Phân bố:
Trong nước: Thừa
Thiên - Huế, Quảng Nam, Lâm Đồng, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Đồng Nai.
Nước ngoài:
Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia.
Giá trị:
Gỗ màu hồng nhạt,
tương đối nặng, dễ chẻ. Cấu trúc, đặc tính và công dụng của gỗ Chò đen gần với
gỗ Sao đen nên được sử dụng trong xây dựng, đóng đồ đạc, tàu thuyền và là một
trong những loài gỗ quý của Việt nam. Cây Chò đen còn cho loại nhựa đặc (chai
cục) với số lượng lớn.
Tình trạng:
Do gỗ tốt và cho
nhiều nhựa nên
gỗ chò đen đã bị khai thác mạnh trong thời
gian vừa qua. Diện tích rừng Chò đen cũng bị suy giảm nhiều do bị chuyển đổi mục
đích sử dụng đất.
Phân hạng:
VU A1,b,c +2b,c, B1+2a,b,c.
Biện pháp bảo vệ:
Hiện nay Chò đen
đã được bảo vệ tốt trong khu Vườn Quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên - Huế) và Khu Bảo
tồn thiên nhiên Bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng). Cần nghiên cứu để đưa vào gieo trồng
loài cây gỗ có nhiều giá trị này.
Tài liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 176.