DƯƠNG KỲ THẢO
DƯƠNG
KỲ THẢO
Achillea millefolium
L.
1753.
Họ: Cúc Asteraceae
Bộ:
Cúc Asterales
Đặc điểm nhận dạng:
Cỏ lâu năm, cao 40 - 80cm; thân có gờ
dọc, phân nhánh, phủ lông trắng.
Lá mọc so le; phiến lá dài 2 - 20cm, rộng 1 - 2,5cm, kép lông chim 2
- 3 lần,
mềm; lá chét hình thuôn, dài 3 - 9mm, mặt trên phủ lông tơ mảnh, mặt dưới dầy hơn,
hình dải, đỉnh nhọn. Cụm hoa đầu, đường kính 4
- 7mm, cuống dài 2 - 4mm, phủ lông
mềm; lá bắc tổng bao hình trứng, xếp 4 hàng, 1 lá bắc dài 4
- 5mm, hàng phía
ngoài đỉnh nhọn, hàng phía trong đỉnh tù, mặt ngoài phủ lông dài, mềm.
Hoa
ở viền cụm hoa thường 5; tràng dạng lưới nhỏ, hình bầu dục dài 2
- 3mm, màu
trắng pha tím nhạt, ống tràng phía dưới dài bằng lưỡi nhỏ là hoa cái; tất cả hoa
ở giữa có tràng hình ống dài 3,5mm, màu trắng là hoa lưỡng tính, đỉnh ống có 5
thuỳ ngắn.
Quả bế hình bầu dục dài 2mm, dẹt.
Sinh học, sinh thái:
Ra hoa và có quả từ tháng 12
- 3 (năm
sau).
Tái sinh bằng hạt. Mọc ở các trảng cỏ và các bãi cỏ có cây bụi thưa ở chân
núi nơi nhiều ánh sáng, nơi độ cao 800 - 2000 m có khí hậu cận nhiệt đới ở vùng
núi cao.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu (Mường Tè),
Điện Biên (Tủa Chùa), Lào Cai (Sapa), Sơn La (Mộc Châu), Lâm Đồng (Đà Lạt).
Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản.
Giá trị:
Dùng làm thuốc bổ, kích thích, trị
ho, cầm máu, kinh nguyệt phụ nữ ra quá nhiều... Ngoài ra, cây có dáng đẹp nên
một số gia đình ở Đà Lạt đã đưa về trồng vừa là cây cảnh vừa làm thuốc.
Tình trạng:
Bị tàn phá do quá trình canh tác
nương rẫy, cháy rừng. Đôi khi cũng được khai thác làm thuốc (nhổ cả cây), làm
mất nguồn gieo giống.
Phân hạng:
VU
A1c, B1+2b,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Thu thập về trồng ở các vườn cây
thuốc vùng núi như Hoàng Liên Sơn (Sapa), Tam Đảo, Lâm Đồng (Đà Lạt).
Tài liệu dẫn: Sách
đỏ Việt Nam - phần thực vật – trang 111.