NGẤY LÁ HÔNG
NGẤY LÁ HỒNG
Rubus rosaefolius
Sm, 1791
Rubus chinensis
Ser., 1825
Rubus comintanus
Blanco, 1845
Rubus
glandulosopunctatus
Hayata, 1914
Họ: Hoa hồng Rosaceae
Bộ:
Hoa hồng Rosales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây bụi sống
nhiều năm có thể cao đến 2 - 3 m với thân có lông mịn, có gai nhỏ, cong hay
thẳng. Lá mọc so le, kép có cuống với 5 - 7 lá chét mọc đối, xoan thon, dài 2 -
4 (3 - 7) cm, rộng 1 - 2(1 - 3) cm, có lông, gân phụ 8 - 10 cặp, mép có răng
kép; lá kèm hẹp, nhọn. Hoa 1 - 3 ở ngọn nhánh, thơm, có tuyến, có cuống; cuống
hoa 2 - 3 cm; lá đài thon nhọn, dài ra, có lông; gập xuống; cánh hoa tròn,
trắng, nhị nhiều, lá noãn nhiều. Quả thành đầu tròn, to 2 cm, màu đỏ.
Sinh học, sinh
thái:
Ở nước ta thường
gặp ở rừng thưa, vùng núi trên 1.000 m và cũng thường gặp trên các đồi, rừng
quanh các làng, bụi rậm. Hoa nở từ tháng 4 đến tháng 5.
Phân bố:
Trong nước: Mọc ở
Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái.
Nước ngoài: Loài này
phân bố rộng từ
Nam Phi, Madagasca, Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Nam Nhật Bản, Indonesia, Úc.
Công dụng:
Theo đông y, dược
liệu Ngấy lá hồng có vị hơi đắng, ngọt và chát, tính mát; có tác dụng thanh
nhiệt, thu liễm, trừ ho, cầm máu. Quả ăn được. Hoa thơm. Rễ khô dùng sắc uống
chữa đau bụng (Lào cai). Dùng ngoài trị bỏng lửa và bỏng nước. Nghiền hạt hay lá
và hoà với dầu Vừng để bôi. Có nơi người ta dùng nước nấu lá uống để điều trị
chứng tim đập nhanh.
Mô tả loài:
Phùng
Mỹ Trung - WebAdmin.