HOA CHÔNG VÀNG
Barleria ameliae
A.Meeuse, 1961
Barleria
prionitis
subsp. ameliae (A.Meeuse) Brummitt & J.R.I.Wood, 1983
Họ: Ô rô Acanthaceae
Bộ:
Hoa mõm sói Scrophulariales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây nhỡ mọc đứng,
cao 4 - 6 m, phân nhánh. Lá có cuống 1,5 - 2 cm; phiến xoan, thon hẹp dài ở gốc,
đầu nhọn sắc, có gai, dài 2 - 12 cm, rộng 1 - 6 cm, nguyên, có lông rải rác ở
trên, có lông mềm thưa ở dưới; gai ở nách lá, nhọn, chia 4. Hoa ở nách lá, đơn
hay ít khi chụm ba, các hoa phía trên sít gần nhau thành bông ở ngọn. Quả nang
có hai hạt.
Sinh học, sinh
thái:
Cây được nhập về
trồng làm cảnh, nhưng hiện nay chúng phát tán rất nhiều ở các vùng rừng khô hạn
ven biển thuôc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận.
Phân bố:
Trong nước: Cây
mọc hoang do phát tán ở các tỉnh Ninh Thuận (Vườn quốc gia Núi Chúa), Binh Thuận,
Đồng Nai.
Nước ngoài: Dải
Caprivi, Malawi, Mozambique, Zambia, Zimbabwe.
Công dụng:
Lá, vỏ, rễ cây
được dùng làm thuốc. Lá sắc đặc ngậm chữa sâu răng; cành lá sắc uống chữa ho. Ở
Ấn Độ, dịch lá dùng để rửa và dùng xoa để ngăn ngừa nứt nẻ chân vào mùa mưa.
Dịch lá đắng và cay được sử dụng nhiều trong các bệnh xuất tiết của trẻ em kèm
theo sốt rét. Dịch tươi của vỏ được dùng trong bệnh phù toàn thân. Vỏ khô được
dùng trị ho. Rễ nghiền giã thành bột dùng làm giảm sưng và làm tan mụn nhọt.
Nước sắc các bộ phận của cây dùng rửa toàn thân trong bệnh tích dịch gây phù. Ở
Vân Nam (Trung Quốc), lá và toàn cây được dùng trị đòn ngã tổn thương.
Tài liệu dẫn:
Cây cỏ có ích Trần Hợp, Võ Văn Chi - Trang 524.