GẮM NÚI CAO
GẮM NÚI CAO
Gnetum montanum
Markgr.,
1930
Họ:
Dây gắm Gnetaceae
Bộ:
Dây gắm Gnetales
Đặc điểm nhận
dạng:
Dây leo khác gốc,
có thân sần sùi, có đốt, màu nâu. Lá dày, dai, hình trừng thuôn, dài 7 - 15 (20)
cm, rộng 4 - 8 cm, gần tròn hay gần nhọn ở gốc, có mũi ngắn ở chóp; gân bên 5 -
8 đôi; cuống dài 0,5 (-1,5) cm. Cụm hoa đực ở nách lá hay ở thân, chia nhánh 2 -
3 lần, gồm nhiều bông hình trụ, mang 18 vòng sít nhau, với bao chung loe ra bao
lấy 20 - 30 hoa đực xếp xắn ốc trên hai dãy và 10 - 15 hoa cái không sinh sản
trên một dãy. Cụm hoa cái phân nhánh 2 - 3 lần với vòng khá cách biệt, mỗi vòng
mang 5 - 7 hoa. Quả hình trứng thuôn, dài 2 - 2,5 cm, rộng 1 - 1,3 cm, không
cuống hay cuống rất ngắn, tù hay hơi tròn và có mũi cứng ở đỉnh.
Sinh học, sinh
thái:
Cây mọc trong
rừng rậm ẩm, trên đất sét đá tốt, ở độ cao 500 - 1.500m tại miền Trung, miền Nam
Việt Nam. Ra hoa tháng 1 - 2, có quả tháng 5 - 7.
Phân bố:
Trong nước: Ở
nước ta có gặp từ Vĩnh Phúc, Hà Tây, Quảng Trị, Quảng Nam, Lâm Đồng tới Tây Ninh
và Kiên Giang.
Nước ngoài:
Assam, Bangladesh, Campuchia, Trung Nam Trung Quốc, Đông Nam Trung Quốc, Đông
Himalaya, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan.
Công dụng:
Cây có vỏ cho sợi
tốt, thường dùng làm dây nỏ, làm chạc hay thừng. Hạt ăn được. Rễ và thân dây gắm
được dùng làm thuốc giảm đau, chữa phong tê thấp, sản hậu gầy mòn, giải các chất
độc (độc thức ăn, sơn ăn da, rắn cắn...) cũng dùng làm thuốc chữa sốt và sốt
rét. Rễ gắm còn dùng chữa kinh nguyệt không đều. Lá gắm giã đắp chữa rắn cắn. Ở
Ấn Độ, dầu hạt dùng xoa bóp trị bệnh tê thấp; thân cây và rễ cây cũng được dùng
làm thuốc hạ nhiệt.
Tài liệu dẫn:
Cây cỏ có ích ở Việt Nam - Võ Văn Chi, Trần Hợp - Trang 203.