THANH TÁO RỪNG
Pavetta indica
L.
Ixora indica (L.) Baill
Ixora paniculata Lam.
Pavetta alba Vahl
Ixora nunypapata Roxb. ex Wight &
Arn.
Họ: Cà phê Rubiaceae
Bộ:
Long đởm Gentianales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây nhỏ mảnh, cao
khoảng 3m hay cây gỗ nhỏ, có cành mọc đối với nhánh non mảnh, nhẵn, có lông bột
hay lông mềm. Lá mọc đối, có hình dạng thay đổi, hình trái xoan thuôn, dài
6 - 23cm, rộng 2 - 7cm, nhẵn, có lông bột hay lông mềm ở mặt dưới. Hoa trắng, thành
xim ở ngọn, có khi thành chuỳ, ngắn hơn lá; lá bắc dạng màng, rộng, dạng đấu,
tồn tại. Quả dạng quả mọng, hình cầu, đường kính 4 - 5mm, có 2 ô, mang một đầu
nhuỵ tồn tại dạng vòng. Hạt 1 trong mỗi ô, màu nâu đen đen, phẳng hay lõm ở
trong, lồi trên mặt lưng.
Sinh học, sinh
thái:
Mọc ở các khu
rừng còn tốt, dọc theo các suối ở rừng thứ sinh sau nương rẫy, gặp trong rừng
đất sét và lên đến độ cao 900m so với mặt biển.
Phân bố:
Loài này mọc ở
Hoà Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Phú và còn mọc ở núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh.
Ngoài ra còn phân bố ở Ấn Độ, Malaysia, Trung Quốc, Úc châu.
Tác dụng:
Vỏ rễ chứa một
glucosid đắng và thơm. Rễ đắng, có tác dụng khai vị lợi tiểu. Lá tiêu viêm, sát
trùng.Ở Việt Nam, gỗ chẻ mỏng nấu nước như Chè, dùng chữa tê thấp. Ở Ấn Độ,
người ta dùng rễ nấu uống khai vị và trị tắc nghẽn ruột và cũng như ở Philippin,
người ta nghiền vỏ rễ, rồi lẫn với Gừng và nước cơm, dùng chữa thuỷ thũng và làm
thuốc lợi tiểu. Ở Malaysia, người ta dùng đắp trị ghẻ. Lá dùng làm cao dán trị
mụn nhọt. Nước sắc lá để nguội qua đêm, trong sương dùng làm thuốc xức rửa trị
loét mũi. Nước sắc lá, cũng dùng cho phụ nữ sinh đẻ uống 3 ngày liền sau khi
sinh và cũng dùng trị sốt. Lá nấu với nước dưới dạng thuốc chườm nóng, dùng để
làm dịu các cơn đau do bệnh trĩ. Quả ngâm giấm được dùng làm gia vị.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt Nam – Võ Văn Chi – trang 341.