RONG ĐÔNG SAO
Hypnea cornuta
(Lamx.) J. Agardh, 1849.
Chondroclonium cornutum
Kuetz.
Họ: Rong đông Hypneaceae
Bộ:
Rong giga Gigartinales
Đặc điểm nhận dạng:
Rong dạng bụi, cao tới 20 cm, màu đỏ
tươi hay đỏ thẫm. Thân dạng trụ tròn, phân nhánh, nhánh dạng trụ tròn, dài 4 - 8
cm, đường kính 1 mm. Trên các nhánh có các nhánh phụ hình sao 3 - 6 cánh và dạng
gai cao 1 - 3 mm, rộng 300 - 500
m.
Mặt cắt ngang phần lõi là tế bào hình trụ, đường kính 60 - 80
mm,
bao quanh có 7 - 8 tế bào; phần biểu bì gồm tế bào nhỏ, hình thoi, cỡ 8 - 11 x 6
- 8 mm.
Túi quả bào tử thường nằm trên các nhánh phụ hình sao. Túi bào tử bốn hình thành
ở chỗ phình rộng của nhánh chính, chia cắt kiểu bậc thang.
Sinh học và sinh thái:
Rong bám chủ yếu trên các loại giá
thể (vỏ sinh vật chết, san hô chết hay các loại vật liệu khác) vùng triều thấp
và dưới triều, đôi khi sâu tới 10 - 15 m, tại các vùng cát có bùn và thường đi
kèm với Caulerpa racemosa (Rong guột chùm) suốt thời gian trong
năm, nhưng thường có nhiều vào mùa cuối đông và mùa xuân, phóng bào tử vào tháng
4 - 5, tàn lụi vào mùa hè.
Phân bố:
Trong nước:
Nghệ An (Quỳnh Lưu, Quỳnh Long), Hà
Tĩnh, Quảng Trị, Khánh Hoà (Nha Trang, quần đảo Trường Sa).
Thế giới:
Các vùng biển nóng
Giá trị:
Nguyên liệu để chiết xuất carrageenan trong công nghiệp mỹ phẩm. Ngoài ra còn
được sử dụng làm thực phẩm.
Tình trạng:
Phân bố rải rác, sinh khối nhỏ, số
lượng cá thể trưởng thành và số tiểu quần thể đều ít, lại bị tàn phá do khai
thác hải sản ven bờ và xây dựng các khu nuôi trồng hải sản làm mất vật bám.
Phân hạng:
EN A1a,c,d, B1+3c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Cần khoanh vùng bảo vệ, hạn chế việc
khai thác hải sản ven bờ bằng các loại dụng cụ làm ảnh hưởng hoặc mất nơi sống
của loài này (lưới dã cào).
Tài liệu dẫn: Sách
đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 514.