TAI MÈO
TAI
MÈO
Abroma augustum
(L.) L.f., 1782
Abroma fastuosum
Jacq.,
1776
Theobroma
augustum
L., 1767
Họ: Trôm Sterculiaceae
Bộ:
Bông Malvales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây nhỡ cao 1 - 3
m. Lá đa dạng,
phiến lá hình trái xoan, dạng tim, chia
thuỳ hay không, có khi hình trái xoan - thon, thường có răng, hơi
có lông nhung, với lông hình sao hay không,
ở mặt dưới có nhiều hơn, dài 10 - 20 cm, rộng 5 - 24 cm. Hoa màu tía, xếp 3 - 5
cái ở nách hay ở đầu cuối các nhánh có lá. Quả nang dạng màng, cao 4 cm, phía
đỉnh cụt và rộng hơn ở gốc, với 5 góc có cánh, hầu như nhẵn, mở ở đỉnh, hạt rất
nhiều, hình trứng ngược, dài 2 mm, hơi sần sùi.
Sinh học, sinh
thái:
Cây thường mọc ở
các đồi
cây bụi và các bãi ven suối trong rừng
nhiều nơi. Cũng thường được trồng lấy sợi vỏ làm dây chống ẩm tốt. Ra hoa quả
quanh năm, chủ yếu vào 5 - 6, có quả từ tháng 7 - 11.
Phân bố:
Trong nước: Hà
Giang, Cao Bằng, Hòa Bình, Thanh Hóa, Tây Ninh. Cây mọc tự nhiên rải rác trong
rừng thưa.
Nước ngoài:
Bangladesh, Borneo, Campuchia, Trung Nam Trung Quốc, Đông Nam Trung Quốc, Đông
Himalaya, Jawa, Đảo Sunda Nhỏ, Malaya, Maluku, Myanmar, Nepal, New Guinea, Đảo
Nicobar, Philippines, Đảo Solomon, Sulawesi, Thái Lan.
Công dụng:
Lá non và lá bánh
tẻ, tước bỏ gân cứng, vò kỹ, thái nhỏ dùng nấu canh; canh có vị nhớt, mùi thơm
như rau bí. Nhân dân dùng vỏ rễ làm thuốc chữa bại liệt, lậu và điều kinh. Ở
Trung Quốc rễ và lá dùng làm thuốc trị đòn ngã gãy xương, kinh nguyệt không đều
và mụn nhọt sưng đỏ. Ở Ấn Độ, vỏ rễ dùng trị đau bụng kinh và dùng điều kinh ở
các dạng sung huyết. Lá hãm uống chữa bệnh lậu với liều 2g dịch rễ tươi mỗi ngày,
trộn với Hồ Tiêu, dùng làm thuốc lợi trung tiện, lợi tiêu hoá.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt Nam - Võ văn Chi - Trang 1087.