MỐP
MỐP
Alstonia spatulata
Blume, 1826
Alstonia cochinchensis
Pierre ex Pit., 1933
Alstonia cuneata
Wall. ex G.Don, 1837
Họ:
Trúc đào Apocynaceae
Bộ: Long đởm Gentianales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây gỗ thường
xanh, cành mọc vòng. Cành non hơi dẹt màu xám, có nếp nhăn dọc có những mấu. Lá
đơn,
lá mọc vòng 3 - 5 chiếc, hình trứng
ngược, đầu tròn hay hơi lõm, gốc hình nêm, dài 5 - 10 cm, rộng 2,5 - 4 cm, gân
bên 20 - 30 đôi, song song, nổi cả hai mặt,
cuống lá dài 5 - 10 mm. Cụm
hoa xim tán hợp ở đầu cành, dài 5 -
10 cm, cuống chung dài 2,5 - 7 cm. Hoa màu trắng, đài 5, dài 1 mm, mép có lông
mi. Cánh tràng 5 dài 6 - 7 mm, nhọn phủ lông nhung phía dưới nhị và gốc. Nhị 5,
đính trên ống tràng, chỉ nhị gần như không; bao phấn dài 0,8 mm, hình lưỡi mác.
Bầu hai lá noãn riêng biệt, nhẵn;
vòi nhụy
dài 3,5 mm, đầu có 2 thùy; noãn đính trên 3 hàng, mỗi ô 8 - 10 noãn. Quả khô,
2 đại, dải 10 - 20 cm, rộng 2,5 - 2 mm, hình dải hẹp, vỏ quả ngoài có sọc dài
mịn, vỏ quả giữa và vỏ quả trong cứng, mỏng. Hạt nhiều, dài 5,5 mm, rộng 2 mm,
hình bầu dục dài, có nhiều lông ở 2 đầu, màu hung.
Sinh học, sinh thái:
Cây phân bố chủ
yếu ven các vùng trũng, ven
rừng hay ven các rừng tràm, trên đất
bùn bồi tụ, đất than bùn và rải rác trong các rừng mưa mùa thường xanh nhiệt
đới. Cây trung tính, lúc nhỏ dòi hỏi tán che. TáI sinh bằng hạt trung bình. ở
những vùng đất lầy, gốc cây xuất hiện rễ hô hấp nhô lên khỏi mặt đất
Phân bố:
Trong nước: Các
tỉnh Đồng Nai, Sông Bé, Tiền Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Minh Hải.
Nước ngoài:
Borneo, Campuchia, Jawa, Malaya, Myanmar, New Guinea, Sumatera, Thái Lan.
Công dụng:
Gỗ thớ thẳng, kết
cấu mịn, chất gỗ mềm, nhẹ dễ ra công, dễ đánh bóng, sau khi khô hơi nứt nhưng
không biến dạng, dễ mối mọt, dễ mục, nhất là dễ bị biến màu, dùng làm đồ văn
phòng phẩm, đồ dùng nhỏ trong nhà, nguyên liệu tốt cho gỗ dán, bột giấy và xơ
sợi hóa học. Rễ khí sinh, mềm, nhẹ, xốp, là nguyên liệu lie quí dùng làm mũ,
nón, nút chai, phao, vật liệu cách nhiệt, ván, đệm, cách âm, chống ẩm.
Tài liệu dẫn:
Cây gỗ kinh tế - Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh - trang 50.