Mãng cầu
MÃNG CẦU
Annona
squamosa L.,1753
Xylopia frutescens Sieber ex C.Presl, 1828
Xylopicron glabrum (L.) Crantz, 1766
Họ: Na
Annonaceae
Bộ: Na
Annonales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây cao 2 - 8m; vỏ có nhiều
lỗ bì nhỏ, tròn, trắng. Lá hình mũi mác, tù hay nhọn, hơi mốc mốc ở phần dưới,
hoàn toàn nhẵn, thường là mềm, dài 10cm, rộng 4cm, có 6 - 7 đôi gân phụ. Hoa nhỏ, màu xanh lục, mọc
đối với lá, có cuống dài 2 - 3cm. Hoa thường rũ xuống, có 3 lá đài màu lục, 3
cánh hoa ngoài hẹp và dày, các cánh hoa ở trong rất hẹp hoặc thiếu hẳn, nhiều
nhị và nhiều lá noãn. Quả mọng kép, màu xanh mốc, gần như hình cầu, đường kính 7
- 10cm, có từng múi, mỗi múi ứng với một lá noãn. thịt quả trắng; hạt đen có vỏ
cứng.
Sinh học, sinh thái:
Cây chịu lạnh kém; ở khí hậu
nóng ẩm và độ cao dưới 1.200m, chịu được hạn và cần thời tiết khô ráo lúc ra
hoa, đến đầu mùa mưa ra quả. Cần đất thoáng, thoát nước và hơi chua (pH 5,5 -
6,5).
Phân bố:
Cây có nguồn gốc ở quần đảo
Ăngti nhỏ (châu Mỹ), được đưa vào trồng ở các nước nhiệt đới châu
Á.
Ở nước ta, Mãng cầu
được trồng nhiều và đã thuần hoá.
Công dụng:
Thịt quả Na mềm và thơm,
ngọt; ngon nhất là Mãng cầu dai khi chín quả không bở nứt, vỏ vẫn bọc lấy quả,
ít hạt. Trong quả có 72% glucose, 14,52% saccharose, 1,73% tinh bột, 2,7%
protein và cũng chứa vitamin C. Quả na ăn có tác dụng hạ khí, tiêu đườm, được
dùng trị lỵ, tiết tinh, đái tháo và bệnh tiêu khát.
Quả Mãng cầu xanh làm săn
da, tiêu sưng, được dùng trị lỵ và ỉa chảy. Quả Mãng cầu điếc dùng trị mụn
nhọt, đắp lên vú bị sưng. Hạt Mãng cầu chứa 38,5 - 42% dầu, trong đó có các acid
béo (acid myrictic, palmitic, stearic, arachidic, hexadecanoic và oleic) chiếm
tỷ lệ lớn. Trong hạt có một alcaloid vô định hình gọi là anonain. Hạt có chất
độc nên được dùng diệt côn trùng, trừ chấy rận.
Lá Mãng cầu chứa một
alcaloid vô định hình, không có glucosid; lá xanh chứa 0,08% dầu. Người ta dùng
lá na non làm gia vị (ăn với thịt vịt). Lá Na già dùng trị sốt rét cơn lâu ngày,
mụn nhọt sưng tấy và ghẻ.
Rễ và vỏ cây cũng như lá đều
chứa acid hydrocyanic; vỏ cũng chứa anonain. Người ta dùng rễ và vỏ na trị ỉa
chảy và trục giun. Ở
Vân Nam (Trung Quốc), lá dùng trị xích lỵ cấp tính; còn dùng trị trẻ em lòi dom;
quả dùng trị u ác tính.
Ở Thái Lan, lá tươi
và rễ dùng trị chấy, mụn nhọt, nấm tóc và lang ben.
Ở Ấn
Độ rễ được dùng gây xổ; hạt, quả và lá dùng diệt côn trùng, thuốc cá, diệt chấy;
hạt kích thích và gây sẩy thai.
Tài liệu dẫn:
Cây cỏ có ích ở Việt Nam - Võ văn Chi - Trần Hợp -
trang 302.