KÈO NÈO
KÈO NÈO
Limnocharis
flava (L.) Buchenau,
1868
Alisma flavum L., 1753
Damasonium flavum (L.)
Mill., 1768
Limnocharis plumieri
Rich., 1815
Họ: Nê thảo Butomaceae
Bộ: Nê thảo Butomales
Đặc điểm nhận dạng:
Thân ngầm mọc trong đất, mang nhiều chồi để mọc cây mới. Các bẹ lá phía trên mặt
đất tạo thành thân giả. Khi trưởng thành cây cao khoảng 45 - 60
cm. và độ sâu tối
đa khoảng 15 cm. Rể chùm, mọc trong đất bùn mềm. Thân rễ dày và ngắn, cây sống ở
đầm lầy, nước nông, chỗ ứ đọng nước, độ sâu tối đa khoảng 15
cm, nếu trồng trong
chậu thì đất phải có nhiều mùn.Lá
mọc thẳng
và hướng lên, không trôi nổi trên mặt nước, thường cao hơn cán hoa. Lá có phiến
dạng xoan, tròn (5 - 30 x 4 - 25 cm), màu xanh lục tươi, gân chính cong. Cuống
lá dài dạng bẹ (dài 10 - 75 cm), xốp (chứa không khí), có mặt cắt có có 3 khía
hình tam giác. Phiến lá có hình dạng thay đổi: dạng mác đến elip thuôn dài hoặc
ovan rộng. Đỉnh lá nhọn đột ngột, ở phía chóp mỏng hơn, mép lá hơi quăn, rìa lá
gợn sóng. Có 4 - 6 đôi gân dọc gần như song song và hôi tụ theo hướng đỉnh, hàng
loạt gân ngang song song và vuông góc với gân dọc và gân chính ở giữa tạo thành
mạng hình mắt lưới mảnh.
Cụm hoa dạng hoa tán, hoa có cuống dài, màu vàng tươi
có từ 1 - 4 cuống cụm hoa. Mỗi cụm hoa có 2 - 12 hoa nằm trong tổng bao là lá
bắc. Cuống hoa nhỏ, có phần mở rộng và có mặt cắt tam giác ở phía trên. Mỗi hoa
có 3 cánh màu vàng vàng nhạt đến vàng tươi, hình ovan rộng hoặc tròn, mang 15 -
20 tiểu nhụy (dài 1,2 cm) và rất nhiều tiễu noãn.
Quả nhỏ
(đường kính 1,5 - 2 cm), được đài hoa bao bọc.Kèo nèo sinh sản, lây lan bằng hạt
và phát triển quần thể bằng sinh sản vô tính.
Sinh học, sinh thái:
Loài
thực vật ngập nước, sống trên đất sình lầy, bùn ẩm, mương cạn, các kênh rạch
thuộc các tỉnh miền Đông, Tây nam bộ.
Phân bố:
Nguồn gốc Châu Mỹ, nhập vào Đông Nam Á từ đầu thế kỷ 20 và trở thành cỏ dại
trong ruộng lúa ở vùng này. Hiện
nay cây kèo nèo phân bố ở Đông Nam Á và Châu Mỹ.
Ở Việt Nam cây kèo nèo xuất hiện trong cả nước và mọc hoang dại như một loại cỏ
trên đất ngập nước ở vùng ĐBSCL.
Công dụng:
Cây được trồng chủ yếu để làm cảnh ở ven các hồ
nước trong công viên, đôi khi trồng làm rau ăn.
Loài cây được
coi như một thứ rau dại ấy đã trở thành một nét đặc biệt trong văn hóa ẩm thực
của miền Tây Nam Bộ.
Mô tả
loài: Trần
Hợp, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.