CƠM CHÁY HOOKER
CƠM CHÁY HOOKER
Sambucus javanica Reinw.
ex Blume, 1780
Phyteuma
bipinnata Lour,
1790
Sambucus
bipinnata Moench
Sambucus
bipinnata Cham.
& Schlechter.
Họ: Cơm cháy Caprifoliaceae
Bộ: Tục đoạn Dipsacale
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây nhỡ sống
nhiều năm, cao tới 3m. Thân xốp gần tròn, nhẵn, màu lục nhạt; cành to trong rỗng
có tuỷ trắng xốp, ngoài mặt có nhiều lỗ bì. Lá mềm, mọc đối, kép lông chim lẻ
gồm 3 - 9 lá chét, dài 8 - 15cm, rộng 3 - 5 cm, mép khía răng; cuống lá có rãnh
ở mặt trên và loe rộng ở phía gốc thành bẹ. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành xim,
nom như tán kép. Quả mọng, hình cầu, màu đỏ sau đen, chứa 3 hạt dẹt. Cây ra hoa
tháng 5 - 8, quả tháng 9 - 11.
Sinh học, sinh
thái:
Cây mọc hoang ở
miền núi, ven suối, bờ khe ở các khu rừng từ có độ cao trên 1000m trở lên. Loài
này còn được trồng làm cây cảnh. Trồng bằng cành hoặc gieo hạt vào mùa xuân.
Phân bố:
Việt Nam cây mọc
ở các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái tới Lâm Đồng.
Công dụng:
Vị hơi đắng, tính
ấm. Rễ chống co thắt và tiêu phù; thân và lá lợi tiểu, tiêu phù và giảm đau. Rễ
trị đòn ngã tổn thương, gãy xương, thấp khớp. Thân và lá trị viêm thận, phù
thũng. Dùng ngoài chữa đụng giập, ngứa, eczema. Liều dùng 30 - 60g, dạng thuốc
sắc. Vào thời Tuệ Tĩnh, lá cây Cơm cháy đã được dùng nấu nước tắm cho bà đẻ. Nay
nhân dân thường dùng lá nấu nước đặc để rửa vết thương, tắm ghẻ lở và giã chung
với giấm hay xào nóng đắp sưng vú. Quả và vỏ được dùng sắc uống với liều 12 -
20g để thông lợi đại và tiểu tiện, chữa kiết lỵ, táo bón và thấp thũng.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt Nam – Võ Văn Chi – trang 342.