ME
ME
Tamarindus indica
L., 1753
Tamarindus officinalis
Hook., 1851
Tamarindus umbrosa
Salisb., 1796
Họ: Đậu Fabaceae
Bộ: Đậu Fabales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây thường xanh, cao 20 - 15 m, đường kính
60 - 100 cm,
thân thẳng không tròn, hơi vặn xoắn, nhiều cành tán lớn. Vỏ thân màu xám
nhiều móc đen như muội, có đường ngăn dọc và ngang rộng. Thịt vỏ dày 1,2 cm, màu
trắng xanh, chát. Cành non mềm, chúc xuống, có lông và vảy dải dác;
lá kép lông chim
chẵn, mọc cách, dài 8 - 10 cm, cuống chung dài 20 cm, mềm, nhỏ, nhẵn, 10
- 20 đôi lá nhỏ hình bầu dục, dài 20mm, rộng 7mm, nhẵn, có 5 - 6 đôi gân bên mờ.
Lá kèm hình sợi, sớm rụng.
Cụm hoa chùm đơn ở đầu cành hay kẽ lá, dài 5 - 10 cm, lá bắc
sớm rụng, nụ hoa dài 2mm, hoa nở màu vàng. Cánh đài 5 hợp thành hình ống, nhẵn,
5 thùy ở đỉnh. Cánh tràng 3 lớn. 8 nhị dính thành bẹ ở dưới. Bầu có cuống nhẵn,
10 noãn;
quả đậu
dẹt đế bị ép, thẳng hoặc hơi cong, dài 7 - 12 cm, rộng Việt Nam: cây mọc, 8
- 1,5 cm, dày 0,3 - 0,7 cm, 3 - 6 đốt, mỗi đốt một hạt. Vỏ quả màu xanh, phủ
lông mịn, sau nhẵn, thịt quả lúc non cứng, màu xanh lúc gìa màu nâu đen, vị chua
ngọt. Hạt hình trứng màu đen, dài 1,5 cm, rộng 1 cm.
Sinh học, sinh thái:
Cây được trồng từ Bắc đến Nam. Nhưng chủ
yếu ở miền Trung và miền Nam Việt Nam để lấy quả và lấy gỗ. Cây ưa sáng, chịu
được hạn và chịu nhiều kiểu loại đất khác nhau kể cả đất ven biển.
Phân bố:
Trong nước: Cây được trồng ở Hà Giang,
Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Thái, Lai Châu, Sơn La, Hà Tây,
Hoà Bình, Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh phía nam, mọc nhiều ven đường
đi, quanh làng bản.
Nước ngoài: Cây có
nguồn gốc từ Trung Phi đã được trồng Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái
Lan, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan.
Công dụng:
Gỗ cứng, không mịn, có thể đóng đồ đạc bàn
ghế thông thường. Quả ăn được, nấu canh, làm kẹo, làm mứt. Cây có dáng đẹp nền
đã được trồng rất nhiều ở công viên, đường phố ở phía Nam nước ta.
Tài liệu dẫn:
Cây gỗ kinh tế - Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh - trang 287.