LOÀI CHUỒN CHUỒN MỚI VÀ CÂU CHUYỆN VỀ LỊCH SỬ PHÂN LOẠI HỌC CHUỒN CHUỒN CÁCH ĐÂY HƠN 100 NĂM
ĐỖ MẠNH CƯƠNG – Chuyên gia bảo tồn các loài chuồn chuồn khu vực Đông Dương của IUCN
.
Tháng 11 năm 2011, tác giả bài viết đã công bố trên tạp chí Nghiên cứu chuồn chuồn Quốc tế (IJO) về loài chuồn chuồn Burmagomphus schneideri được tìm thấy tại khu rừng thứ sinh KBang thuộc tỉnh Gia Lai.
Đường dẫn của phần tóm tắt bài báo: http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/13887890.2011.610268#preview
Loài Burmagomphus schneideri có cấu tạo ngoài gần với loài B. vermicularis được công bố bởi Martin vào năm 1904. Trong ấn phẩm mô tả loài B. vermicularis, Martin ghi chú các mẫu vật của loài này được thu thập tại vùng Annam và Tonkin (Bắc và Trung Việt Nam), khi đó loài “vermicularis” được xếp trong giống Gomphus.
Năm 1908, Williamson, Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, dựa trên các mẫu vật thu thập từ Myanma được định loài là loài “vermicularis” đã đề xuất giống mới là giống Burmagomphus và lấy loài “vermicularis” làm loài chuẩn của giống. Tuy nhiên sau này Lieftink, Bảo tàng tự nhiên Leiden, Hà Lan vào năm 1949 đã chỉ ra rằng thực chất loài “vermicularis” ở Burma hay Myanma ngày nay mà Williamson nghiên cứu thuộc về một loài hoàn toàn khác biệt so với loài “vermicularis” thật sự thu được tại vùng Tonkin (Bắc Việt Nam). Lieftink cũng chỉ ra rằng ngay trong công bố về giống mới Burmagomphus (khi đó Myanma là thuộc địa của Anh Quốc có tên gọi là Burma), Williamson đã viết nhầm tên loài “vermicularis” thành “vermiculatus”, sai sót này đã bị sao chép lại trong xuất bản của Fraser sau này khi ông xuất bản tập công trình về chuồn chuồn của Ấn độ.
Lieftink đã mô tả mới loài ở Myanma và đặt tên là loài B. arboreus, loài này trở thành loài chuẩn của giống mặc dù loài đầu tiên của giống này là B. vermicularis được tìm thấy ở Bắc và Trung Việt Nam. Sau này, trong giai đoạn 1954-1995, một tác giả nghiên cứu chuồn chuồn người Trung Quốc (Chao) đã mô tả các ghi nhận của loài B. vermicularis ở Trung Quốc và Đài Loan, tuy nhiên những công bố của Chao chỉ dựa trên phỏng đoán vì ông chưa bao giờ kiểm chứng được chính xác cấu tạo của loài B. vermicularis mà Martin đã mô tả năm 1904. Ẩn số về loài B. vermicularis nằm trong bộ sưu tập chuồn chuồn đang được lưu trữ tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Paris, Pháp vẫn chưa được giải đáp sau hơn 100 năm, tất cả thông tin về loài này chỉ được biết đến dựa trên bản mô tả khoảng 300 từ bằng tiếng Pháp của Martin.
Năm 2010, tác giả đã tiến hành điều tra chuồn chuồn tại 2 tỉnh Gia Lai và Lạng Sơn, 2 loài chuồn chuồn khác biệt được thu thập từ 2 điểm nghiên cứu, cả 2 loài này đều có cấu tạo giống với mô tả của Martin. Nhờ sự giúp đỡ của Giáo sư Jean Legrand, loài Burmagomphus thu thập ở Hữu Liên, Lạng Sơn cho thấy có cấu tạo tương ứng với mẫu chuẩn của loài B. vermicularis tại Bảo tàng tự nhiên Paris. Loài còn lại ở Gia Lai được mô tả mới cho khoa học. Công bố của tác giả trên IJO cũng cho thấy loài Burmagomphus ở Quảng Đông, Trung Quốc cũng được khẳng định là loài B. vermicularis được mô tả ở Việt Nam cách đây hơn 100 năm. Loài mới Burmagomphus ở Gia Lai được đặt tên theo tên của nguyên Tổng thư ký Hiệp hội nghiên cứu chuồn chuồn Quốc tế: Wolfgang Schneider, người có nhiều đóng góp cho việc xây dựng hiệp hội nghiên cứu chuồn chuồn thế giới.
Quá trình xác định và mô tả loài chuồn chuồn mới Burmagomphus schneideri không chỉ đơn giản là một nghiên cứu thuần túy về phân loại học hay đa dạng sinh học, phát hiện về loài này đã làm sáng tỏ một phần lịch sử của khoa học. Những hình ảnh về những quốc gia bị đô hộ và khai thác tài nguyên bởi các quốc gia mạnh hơn được tái hiện thông qua các sản phẩm khoa học, những đợt khảo sát và điều tra, khám phá tự nhiên nói chung và tài nguyên thiên nhiên nói riêng, khi mà ba nước Đông Dương nằm dưới sự bảo hộ của Pháp và Myanma cùng Ấn độ nằm dưới sự bảo hộ của Anh. Nghiên cứu này cho thấy điểm chung giữa khoa học và lịch sử đó là “sự thật” và khát vọng của những nhà sử học hay khoa học tự nhiên đều là tìm câu trả lời chính xác cho dù chúng có thể bị che đậy, đánh lạc hướng bởi những biến cố lịch sử.
|
|
|
|
Cấu tạo hình thái ngoài của loài Burmagomphus schneideri, Do 2011 |
|
|