BẠN BIẾT GÌ VỀ NHỮNG MỐI ĐE DOẠ ĐỐI VỚI ĐA DẠNG SINH HỌC ?
Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao. Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn 99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra .
Những loài sống trên các đảo đặc biệt rất dễ tuyệt chủng vì chúng chỉ sống được trên một hay một số ít hòn đảo. Mô hình sinh địa của đảo được sử dụng để dự báo rằng với tốc độ phá hủy nơi cư trú như hiện nay thì mỗi năm sẽ có 25.000 loài sẽ bị tuyệt chủng trong vòng 10 năm tới. Nhiều quần xã sinh học đang dần dần bị mai một bởi những sự tuyệt chủng cục bộ của loài.
Hạn chế việc gia tăng dân số loài người là một giải pháp hữu hiệu giải quyết cuộc khủng hoảng của đa dạng sinh học. Hơn nữa những hoạt động quy mô lớn của công nghiệp khai thác gỗ và nông nghiệp thường dẫn đến việc hủy hoại môi trường tự nhiên không cần thiết, làm ảnh hưởng đến việc khai thác dài hạn các nguồn lợi thiên nhiên. Những nỗ lực nhăm hạn chế sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở những nước cộng nghiệp phát triển và việc xóa đói giảm nghèo tại các nước đang phát triển đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược tống thể bảo vệ đa dạng sinh học.
Nguy cơ lớn nhất đe dọa đa dạng sinh học là việc mất các nơi cư trú; bởi vậy việc làm quan trọng nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là bảo tồn các nơi cư trú. Các nơi cư trú đặc biệt đang bị đe dọa hủy hoại là các khu rừng mưa, rừng khô nhiệt đới, các vùng đất ngập nước ở tất cả các vùng khí hậu, các vùng đồng cỏ ôn đới, rừng ngập mặn, và các dải san hô. Nơi cư trú bị chia cắt là quá trình mà những khu vực rộng lớn, liên tục của nơi sinh sống bị giảm về diện tích hay bị chia cắt xé lẻ nơi ra làm hai hay nhiều phần nhỏ. Việc việc chia cắt xé lẻ nơi cư trú có thể dẫn đến sự mất mát nhanh chóng của các loài còn lại bởi vì chúng tạo ra những rào chắn ngăn cản việc phát tán, việc định cư và kiếm mồi của các loài động vật. Môi trường sống trong phần bị chia cắt xé lẻ sẽ bị thay đổi và các côn trùng gây hại sẽ trở nên phổ biến hơn.
|
|
|
Sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần xã sinh học của chúng kể cả ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi trường bao gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân bón hóa học và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng quá mức, các khí quang hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có thể bị thay đổi trong thế kỷ XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyên quá lớn do quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến sẽ nhanh đến mức nhiều loài không thê nào điều chỉnh được biên độ sống của chúng và sẽ bị tuyệt chủng.
Hiện nay tình trạng nghèo khó vẫn diễn ra ở nông thôn. Việc cải tiến đạt hiệu quả cao hơn các phương pháp săn bắn và hái lượm, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đã thúc đẩy sự khai thác quá mức đối với rất nhiều loài, đẩy chúng đến sự tuyệt chủng. Các nền văn minh của các xã hội trước đây có những truyền thống, thói quen hạn chế khai thác tài nguyên quá mức, nhưng ngày nay, những truyền thống đó đã bị phá vỡ và con người vô tình hoặc hữu ý đã chuyển hàng ngàn loài đến những vùng đất mới trên thế giới. Một số loài nhập cư đã có tác động xấu đối với các loài bản địa dẫn đến dịch bệnh và động vật sống ký sinh thường gia tăng khi các loài động vật bị nuôi nhốt tại những khu bảo tồn thiên nhiên và không thể di chuyển đi lại trong một địa bàn rộn lớn. Động vật bị nuôi nhốt thường có tỷ lệ bị mắc bệnh cao và các bệnh dịch đôi khi lan truyền giữa các loài động vật có quan hệ họ hàng với nhau.
Các loài động vật dễ bị tuyệt chủng có những đặc điểm nhất định như: có vùng phân bố địa lý hẹp, chỉ có một hay ít quần thể, kích thước quần thể nhỏ, quần thể bị suy giảm về số lượng và có giá trị kinh tế đối với con người dẫn đến việc bị khai thác quá mức .
Các nhà sinh học đã nhận thấy rằng các quần thể nhỏ có nguy cơ bị tuyệt chủng cao hơn nhiều so với các quần thể lớn. Kích thước tối thiểu của quần thế (Minimum viable population) chính là số lượng cá thê cần đủ để đảm bảo cho một quần thể có khả năng sống sót cao trong tương lai gần. Có ba nguyên nhân chính dẫn đến sự tuyệt chủng của các quần thể nhỏ: sự mất đi khá năng trao đổi gen và suy giảm sức sống do giao phối gần; sự dao động về số lượng cá thể; sự biến đối môi trường do thiên tai. Các hệ quả tổng hợp của các yếu tố trên được so sánh như yếu tố chính làm cho các quần thể nhỏ bị tuyệt chủng. Để tính toán số lượng quần thể tối thiểu có thể sống sót của một quần thể và khả năng chống chịu của quần thể đó trong một môi trường nhất định, ta phải sử dụng các số liệu về chủng quần học, gen, môi trường, thiên tai trong phân tích khả năng sống sót của quần thể. Các nhà sinh học bảo tồn cũng khẳng định rằng bằng cách quan trắc các quần thể của một loài có nguy cơ bị đe dọa, có thể biết được hiện trạng số lượng, của loài đó hoặc đang ổn định, đang tăng lên, đang dao động hay đang suy giảm.
|
|
|
Thường thì điều chủ yếu để bảo vệ và quản lý một loài quý hiếm hay có nguy cơ tuyệt chủng chính là phải hiểu được lịch sử tự nhiên của loài đó. Một số loài qúy hiếm được mô tả một cách chính xác hơn như là các quần thể biến thái trong đó một nhóm các quần thể tạm thời được nối kết với nhau do sự di cư, sự nhập cư và sự xâm chiếm. Các quần thể mới của các loài quý hiếm và quần thể loài có nguy cơ tuyệt chủng có thể được tái phục hồi trong tự nhiên bằng cách sử dụng các cá thể hoặc được nuôi hay bị bắt ở ngoài tự nhiên. Trước khi thả ra tự nhiên, chim và thú được nuôi trong chuồng có thể phải được huấn luyện về tập tính săn mồi và sau khi được thả ra, chim và thú đó cũng thường phải được duy trì sự chăm sóc ở một mức độ nhất định. Việc tái lập phục hồi đưa vào các loài thực vật đòi hỏi phải có một phương thức khác do yêu cầu về môi trường chuyên hoá tại các giai đoạn gieo hạt và nảy mầm. Một số loài đang có nguy cơ tuyệt chủng ở ngoài thiên nhiên có thể được duy trì ở các vườn thú, các vườn thực vật các bể nuôi; cách thức này được biết như là phương pháp bảo tồn ngoại vi. Đôi khi các loài được nuôi chiếm ưu thế có thể được sử dụng về sau để tái lập các loài đó ở ngoài thiên nhiên.
Nhằm nêu bật tình trạng của các loài nằm trong mục đích bảo tồn IUCN đã đưa ra năm mức báo tồn chính: tuyệt chủng, có nguy cơ, dễ bị tổn thương, quý hiếm và chưa có thông tin đầy đủ. Hệ thống phân loại này ngày nay được sử dụng rộng rãi để đánh giá tình trạng của các loài và lập các ưu tiên về bảo tồn.
Hiện nay một số những đạo luật có hiệu quả về bảo vệ các loài Đang có Nguy cơ Tuyệt chủng được ban hành ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những đạo luật này thường là trung tâm của các cuộc tranh cãi giữa các lợi ích về môi trường, và lợi ích kinh tế .
Một sự thật hết sức hiển nhiên là một số loài sinh vật có khả năng di cư xuyên biên giới cho nên việc kiểm soát các loài cần phải có sự liên kết giữa các quốc gia. Các hoạt động buôn bán quốc tế về các sản phẩm sinh học, tầm quan trọng quốc tế của các lợi ích về đa dạng sinh học và tính quốc tế của các mối đe dọa đối với tính đa dạng nên cần thiết phải có các công ước và thỏa thuận quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học. Công ước Quốc tế về buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng (CITES) đã được ban hành nhằm kiểm soát và quan trắc việc buôn bán các động vật có nguy cơ bị đe doạ; ngày càng được xem là một cứu cánh lớn nhất của NHÂN LOẠI trong việc bảo tồn đa dạng sinh học của hành tinh chúng ta.
Phùng Mỹ Trung - ST
|