BẠN BIẾT GÌ VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA RỪNG VIỆT
NAM ?
Phùng Mỹ Trung - ADMIN (ST)
Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc
vùng Đông nam Á giàu về đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác
biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt
đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên
nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một
dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã
được hình thành ở các độ cao khác nhau như các rừng thông chiếm
ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn loại lá kim và lá
rộng, rừng khô cây họ Dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng họ Dầu địa hình
thấp rừng ngập mặn cây Đước chiếm ưu thế ở ven biển châu thô sông
Cửu Long và sông Hồng rừng Tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn loại
tre nứa ở nhiều nơi.
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một
thời kỳ kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn
phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê được 10.484 loài
thực vật bậc cao có mạch. khoảng 800 loài rêu và 600 loài nấm. Theo
dự đoán của các nha thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch
ít nhất sẽ lên đến 12.000 loài, trong đó có khoảng 2.300 loài đã
được nhân dân dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,
thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác.
Chắc chắn rằng hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa
biệt công dụng của chúng. Cũng có thể có rất nhiều loài có tiềm
năng như một nguồn cung cấp dược liệu hết sức quan trọng.
Hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật
Việt Nam không có các họ đặc hữu và chỉ có khoảng 3% số chi là đặc
hữu (như các chi Ducampopinus, Colobogyne)
nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 33% số loài thực vật ở miền Bắc
Việt Nam và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn quốc (Thái Văn Trừng,
1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính:
khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc
Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng
mưa ở phần Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp
trong một vùng rất hẹp với số cá thể rất thấp. Các loài này thường
rất hiếm vì các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh
nhỏ hay bị khai thác một các mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường
không có loài chiếm ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài
thường hạn chế và một khi đã bị khai thác, nhất là khai thác không
hợp lý thì chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng hiện nay của
một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa)
Gụ mật (Sindora siamensis) nhiều loài
cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà (Coptis chinensis),
Ba kích (Morinda officinalis)... thậm chí
có nhiều loài đã trở nên hiếm hay có nguy cơ bị tiêu diệt như Thông
nước (Glyptostrobus pensilis), Hoàng đàn
(Cupressus torulosa), Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Cẩm lai Bà Rịa (Dalbergia
bariaensis), Pơmu (Fokiena hodginsii)
v.v.
Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được
275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái,
472 loài cá nước ngọt, khoảng 2.000 loài cá biển và thêm vào đó
có hàng chục ngàn loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và
nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985; Võ Quý, 1997; Đặng Huy Huỳnh, 1978).
Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn
có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông nam á. Cũng như thực
vật giới động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài
và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu. Có rất
nhiều loài dộng vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý
nghĩa lớn về bảo vệ như: Voi, Tê giác Giava, Bò rừng, Bò tót, Trâu
rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ, Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám,
Voọc mũi hếch, Sếu cổ trụi, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn, Ngan
cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển...
Theo tài liệu (Review of the Protected Areas System in the Indo
- Malayan Realm, MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu
về thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước
trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ có trong vùng phụ
này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng
phụ (Eudeyl 1987). Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt
Nam có 33 loài trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam, so với
Miến Điện, Thái Lan, Malaixia, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào
một loài và Campuchia không có loài đặc hữu nào cả.
Khi xem xét về sự phân bố của các loài ở trong vùng phụ Đông Dương
nói chung, số loài thú và chim và các hệ sinh thái có ngụy cơ bị
tiêu diệt nói riêng và sự phân bố của chúng. Chúng ta có thể nhận
rõ rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao
về vấn đề bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có
những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong hai năm 1992 và 1994 đã
phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng
rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) và loài Mang
lơn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà
trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới,
loài Gà lam đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis).
Ngày 21 tháng 10 năm 1994 một loai thú lớn mới thứ ba là loài (Pseudonovibos
spiralis) ở Tây Nguyên, tạm gọi là loài Bò sừng xoắn được công bố
và năm 1997 một loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả đó
là loài Mang Trường Sơn (Megamuntiacus truongsonensis) tìm thấy
lân đầu tiên ở vùng Hiên, thuộc tỉnh Quảng Nam. ở khu vực Vũ Quang
trong những năm gần đây phát hiện được thêm một loài cá mới cho
khoa học: Opsarichthys vuquangensis. Chúng ta tin rằng ở Việt Nam
chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà khoa
học biết đến.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp
ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong
quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong
quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững
chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã
qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong
những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên này,
nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa Phát triển kinh tế đang khai thác
quá mức và phí phạm nguồn tài nguyên quý giá này. Nhiều loài hiện
đã trở nên hiếm một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết
sử dụng đúng mức và quản lý tốt nguồn tài nguyên sinh học của Việt
nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị thế
nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh chóng. Nếu
bạn là một con người tâm huyết bạn sẽ nghĩ gì ?
|