MAIN FEATURES OF BIRDS FAMILY
|
Otididae
|
Houbaropsis bengalensis |
|
|
|
Gồm một số loài có thân hình chắc, kích thước lớn và trung bình, đầu lớn. Là những loài chuyên sống trên mặt đất, có chân to, khoẻ, khá ngắn và không có ngón cái. Bộ lông dày, chắc, thay đổi tùy loài. Chim đực và chim cái có bộ lông khác nhau. Nơi sống chủ yếu của họ này là đồng cỏ rộng và đồng bằng. Phần lớn các loài Ôâ tác không ghép đôi vào mùa sinh sản, một số ít ghép đôi tạm thời. Làm tổ trên mặt đất, thường là một hõm nông có lót cỏ. Mỗi lứa đẻ 3-5 trứng có khi 5.
Chim cái ấp trứng. Chim non mới nở khoẻ mạnh. Thức ăn chính của chúng là thực vật nhưng đôi khi ăn cả độngvật như: ếch, nhái, chuột …Thức ăn của chim non là côn trùng. Có 23 loài phân bố trên thế giới phần lớn ở châu Phi. Ở Việt Nam chỉ gặp 1 loài. |
|
|
Campephagidae |
|
|
|
|
Có 70 loài thuộc 9 giống được phân bố trên thế giới và 14 loài thuộc 4 giống ở Việt Nam. Họ phường chèo có có kích thước nhỏ và trung bình; từ cỡ chim sẻ đến bồ câu. Lông ở hông khá nhiều, thân lông đôi khi bè rộng ra rồi kéo dài thành mũi nhọn. Bộ lông dày, nhẹ nhưng không chắc. Mỏ hơi dẹp ở gần gốc, mút mỏ trên cong thành góc và có khía răng. Lỗ mũi thường có phủ lông nhỏ. Chân nhỏ, gió ngắn. Cánh nhọn và có 10 lông cánh sơ cấp, lông ngoài cùng có kích thước trung bình.
Đuôi khá dài. Chim đực và chim cái có bộ lông ít nhiều khác nhau. Họ rất giống với họ Bách thanh, nhưng chân và mỏ yếu hơn nhiều và lông lại mủn, dễ bị rụng, còn đặc điểm sinh học khác xa. Đây là họ chim sống chủ yếu ở rừng, chúng thường sống trên cây và ăn sâu bọ. Tổ hình chén thường làm trên các cây cao ở những cành nhỏ thoáng. Mỗi lứa đẻ 2-5 trứng, màu lục nhạt có đốm nâu. Họ này phân bố ở các vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới từ phía tây châu Phi kéo dài sang phía đông đến châu Úc. |
|
|
Corvidae |
|
|
|
|
Gồm các loài chim có cỡ lớn nhất trong các loài chim thuộc bộ Sẻ. Đặc điểm của họ này là cơ thể chắc, khoẻ, mỏ rất khoẻ, có kích thước khá lớn và ít nhiều có hình nón hay hơi cong. Cánh thường tròn hay hơi nhọn. Đuôi khá dài gồm 12 lông. Lỗ mũi thường bị lông che kín. Bộ lông màu đen, xám, đôi khi có ánh xanh, tuy nhiên trong họ quạ cũng có nhiều loài có bộ lông rất sặc sỡ. Chim đực và cái có màu sắc giống nhau, nhưng thường thì chim đực có kích thước hơi lớn hơn chim cái.
Môi trường sống của họ này không giống nhau. Chúng có ở rừng rậm, núi cao, sa mạc, đồng ruộng, vườn làng và cả ở những thành phố đông đúc. Nhiều loài sống thành đàn khá lớn. Chúng có thể làm tổ thành đàn trên một cây trong một khu rừng hay từng đôi riêng lẻ tuỳ loài. Tổ làm trên cành cây, bụi rậm, hốc cây, kẽ đá hay các công trình xây dựng của người. Mỗi lứa chúng đẻ 3-9 trứng. Thức ăn rất đa dạng gồm cả động, thực vật. Có khoảng 100 loài thuộc 20 giống phân bố trên trái đất. Ở Việt Nam có 15 loài thuộc 6 giống. |
|
|
Scolopacidae |
|
|
|
|
Họ Rẽ hầu hết là những loài chim có kích thước trung bình hay bé, cổ dài, chân dài (đôi khi rất dài), một số lại có chân rất ngắn. Cánh thường dài. Lông cánh sơ cấp thứ 3 dài nhất tất cả các loài đều bay khoẻ, nhanh. Nơi sống chủ yếu của chúng là những sinh cảnh trống trải như bờ sông, biển, hồ, bãi triều, bãi lầy nơi có cỏ và thực vật thuỷ sinh, những chỗ nước nông. Một số ít loài sống trong rừng và làm tổ trên cây và một số loài là những loài chim di trú.
Thức ăn chính của chúng là những loài động vật không xương sống, một số ăn cá nhỏ và thân mềm. Chim đực và chim cái có bộ lông giống nhau, chim đực lớn hơn chim cái. Tổ của chúng làm trên mặt đất rất sơ xài và mỗi lứa đẻ từ 2–6 trứng. Ở Việt Nam có 14 loài thuộc 3 giống |
|
|
Monarchidae |
|
|
|
|
Gồm các loài chim cỡ nhỏ đa số có trọng lượng từ 8-25g. Mỏ nhọn, gốc mỏ dẹt, mút mỏ trên có vết khuyết khá rõ. Ở gốc mỏ có nhiều lông và ở phần lớn các loài các lông ở gốc mỏ che kín ở lỗ mũi. Chân tương đối yếu, ngón ngắn. Cánh dài và không rộng, với các lông cánh sơ cấp 3-5 dài nhất. Đuôi có 12 lông. Màu lông của họ này rất đa dạng. Một số loài có màu xỉn mà chủ yếu là màu nâu xám, đen và một số loài khác lại có màu rất sặc sỡ. Đuôi thường ngắn, xoè rộng, nhưng có ít
loài đuôi rất dài như chim Thiên đường. Chim đực và cái rất khác nhau về màu sắc bộ lông. Sống ở các khu rừng tương đối sáng sủa, ven rừng. Ít khi gặp chúng ở những nơi quá rậm rạp hay những nơi quá quang đãng. Làm tổ trên các cành cây, kẽ đá, một số loài làm tổ trong hốc cây. Thức ăn chính là côn trùng các loại. Ở Việt Nam có 10 loài thuộc 4 giống. |
|
|
Coraciidae |
|
|
|
|
Gồm các loài có thân chắc, đầu lớn, cổ ngắn. Mỏ to, hơi dẹp theo chiều trên dưới, gần mút mỏ trên có răng nhỏ, sống mỏ cong. Đuôi có kích thước trung bình. Chân ngắn nhưng bàn chân khoẻ, các ngón chân ngoài khá tự do, phần gốc của ngón này ít dính với phần gốc của ngón giữa hơn ở các đại diện của các họ khác cùng bộ. Bộ lông thường có màu sặc sỡ, phần chính là màu lục và xanh. Chim đực và chim cái hầu như giống nhau hay khác nhau rất ít.
Họ này thường sống thành đôi riêng lẻ hay đàn nhỏ. Chúng thường rất ồn ào, tiếng kêu khoẻ và rất dễ nhận. Chúng làm tổ trong các hốc cây hay kẽ đá. Mỗi lứa đẻ 3-5 trứng. Cả hai chim bố, mẹ đều tham gia làm tổ, ấp trứng và nuôi chim non. Chim non mới nở yếu và trần. Họ sả rừng gốm 16 loài thuộc 3 giống, phần lớn phân bố ở nam bán cầu. Ở Việt Nam gặp 2 loài thuộc 2 giống. |
|
|
Sturnidae |
|
|
|
|
Gồm các loài chim cỡ trung bình, có mỏ khoẻ và dày, mép mỏ trơn hay chỉ ở mút mỏ trên có khía nhỏ. Đuôi gồm 12 lông . Số lông cánh sơ cấp 10, trong đó lông cánh thứ cấp rất bé. Chân khoẻ, mặt sau của giò phủ tấm vảy sừng ngang lớn hay có hai tấm sừng dọc. Sống mũi luôn trến và nằm gần về phía mép mỏ hơn là về phía sống mỏ. Thân chắc. Chim đực và cái thường có màu lông gần giống nhau, tuy nhiên cũng có một số loài màu lông của chim đực hơi sặc sỡ hơn.
Các loài thuộc họ này sống ở nhiều sinh cảnh khác nhau: rừng rậm, núi đá, rừng thưa, thung lũng v.v… nhưng phần lớn thích nghi với các vùng đất trồng trọt. Thức ăn chính là các loài động vật không xương sống mà phần lớn là côn trùng, quả mềm. Tất cả đều làm tổ kín trong hốc cây hay hang đất, đá. Trứng thường có màu xanh nhạt. Họ này là những loài chim có ích. Có khoảng 130 loài, phần lớn phân bố ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới của phần đông bán cầu. Ở Việt Nam có 15 loài thuộc 5 giống. |
|
|
Ploceidae |
|
|
|
|
Gồm các loài chim cỡ bé và trung bình. Chúng thích nghi với nhiều điều kiện sống rất khác nhau, nhưng đa số có đời sống trên cây. Cơ thể của các loài thuộc họ này chắc, đầu tròn, cổ ngắn, mỏ khoẻ hình chóp nón với mép mỏ trơn. Cánh ngắn, tròn và có 10 lông cánh sơ cấp, lông thứ nhất rất bé. Lỗ mũi nằm sát với mép trán hay nằm trong mép trán. Bộ lông chắc và có màu sắc đa dạng. Các loài ở phương bắc và ở các vùng Á nhiệt đới có bộ lông màu xỉn nhưng những loài nhiệt đới lại rất sặc sỡ.
Một số loài có mào lông ở đỉnh đầu. Hầu hết các loài di chuyển trên mặt đất và rất thích tắm cát và bụi. Làm tổ tập đoàn trên cùng 1 cây. Thậm chí một số loài số tổ làm trên 1 cây nhiều đến mức làm đổ cả cây. Tổ hình cầu và bện rất công phu bằng dễ cây sợi thực vật, lá cỏ … Mỗi lứa đẻ từ 3-6 trứng. Thức ăn chủ yếu của các loài thuộc họ sẻ là hạt thực vật, quả mềm và côn trùng dùng để nuôi chim non lúc mới nở. Có khoảng 263 loài phân bố trên thế giới và khoảng 4/5 số loài sống ở châu Phi. Ở Việt Nam có 12 loài thuộc 6 giống. |
|
|
Emberizidae |
Emberiza pusilla |
|
|
|
Gồm các loài chim cỡ bé và trung bình. Cơ thể của chúng chắc, đầu tròn, cổ ngắn, mỏ khoẻ hình chóp nón với mép mỏ trơn. Lông mép ít và ngắn. Có 9 lông cánh sơ cấp, lông thứ nhất dài gần bằng lông thứ 2, các lông cánh thứ cấp dài gần bằng 1/3 chiều dài của cánh. Đuôi có 12 lông. Bộ lông dày, chắc, màu sắc đa dạng. Một số loài ở vùng nhiệt đới có mào lông ở đỉnh đầu. Chim đực và chim cái có bộ lông khác nhau. Nơi sống của chúng là những nơi bãi cỏ, savan, đồng ruộng, ven rừng, núi cao không có rừng rậm.
Một số ít loài sống ở chỗ có cây lớn, rậm rạp. Một số loài có giọng hót hay, bộ lông đẹp, dễ nuôi nên được nuôi làm cảnh. Tổ của chúng hình cầu, có mái che kín được bện rất công phu bằng các sợi thực vật, cành cây, rễ cỏ. Tổ làm trên cây, kẽ đá, mặt đất. Mỗi lứa đẻ 3-6 trứng. Thức ăn chủ yếu là hạt thực vật. Chim non được nuôi bằng côn trùng. Có 322 loài phân bố khắp thế giới. Ở Việt Nam có 8 loài thuộc 2 giống. |
|
|
Fringillidae |
|
|
|
|
Gồm các loài chim cỡ bé và trung bình. Cơ thể của chúng chắc, đầu tròn, cổ ngắn, mỏ khoẻ hình chóp nón với mép mỏ trơn. Lông mép ít và ngắn. Có 9 lông cánh sơ cấp, lông thứ nhất dài gần bằng lông thứ 2, các lông cánh thứ cấp dài gần bằng 1/3 chiều dài của cánh. Đuôi có 12 lông. Bộ lông dày, chắc, màu sắc đa dạng. Một số loài ở vùng nhiệt đới có mào lông ở đỉnh đầu. Chim đực và cái có bộ lông khác nhau. Nơi sống của chúng là những chỗ trống trải như: bãi cỏ, savan, đồng ruộng,
ven rừng, núi cao không có rừng rậm. Một số ít loài sống ở chỗ có cây lớn, rậm rạp. Một số loài có giọng hót hay, bộ lông đẹp, dễ nuôi nên được nuôi làm cảnh. Tổ của chúng hình cầu, có mái che kín được bện rất công phu bằng các sợi thực vật, cành cây, rễ cỏ. Tổ làm trên cây, kẽ đá, mặt đất. Mỗi lứa đẻ 3-6 trứng.Thức ăn chủ yếu là hạt thực vật. Chim non được nuôi bằng côn trùng. Có 322 loài phân bố thế giới. Ở Việt Nam có 12 loài thuộc 7 giống. |
|
|
Gruidae
|
|
|
|
|
Gồm những loài chim cỡ lớn, cổ dài, chân cao bề ngoài nhìn giống họ Hạc. Bộ lông họ Sếu dày, chắc, phần dưới ống chân trụi, ở nhiều loài đầu cũng trụi và có mảnh da có màu sắc sặc sỡ. Một số loài có túm lông dài ở đỉnh đầu hay ở hai bên má. Cánh không dài nhưng rộng, đuôi ngắn. Số lông cánh sơ cấp 11 đôi khi 10. Số lông đuôi 10-12. Mỏ dài, khoẻ, chân cao có 4 ngón không dài lắm. Giữa ngón ngoài và ngón giữa có màng hẹp. Ngón chân sau kém phát triển và hơi cao hơn so với ngón khác.
Chim đực và chim cái giống nhau. Nơi sống của họ này là các đồng cỏ rộng, chỗ gần nước hoặc các vùng đầm lầy ở phương Bắc. Thức ăn chính là các loại củ, hạt, mầm đôi khi chúng ăn cả động vật. Là những loài đơn thê, có đôi sống với nhau cả đời. Tổ làm trên mặt đất. Mỗi lứa đẻ từ 1-2 trứng. Chim non mới nở khoẻ. Có 4 giống và 11 loài phân bố trên thế giới trừ Nam Mỹ, Madagasca… Ở Việt Nam có 3 loài thuộc giống Grus. |
|
|