VOỌC ĐẦU TRẮNG CÁT BÀ
VOỌC ĐẦU TRẮNG CÁT BÀ
Trachypithecus francoisi poliocephalus
(Trouesart,
1911)
Pithecus poliocephalus
Trouesart, 1911
Semnopithecus (Lophopithecus) poliocephalus
Trouesart, 1911.
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ:
Linh trưởng Primates
Đặc điểm nhận
dạng:
Bộ lông dày, sợi
lông hơi thô cứng. Con trưởng thành có đầu, vai màu trắng vàng. Vùng mông màu
xám nhạt. Đầu có mào lông với gốc lông màu vàng nhạt, mút lông phớt xám.
Đuôi dài, thon, dày lông và màu đen.
Con non
mới sinh có lông màu vàng nhạt.
Sinh
học, sinh thái:
Voọc
đầu trắng sống ở rừng trên núi đá, giống Voọc má trắng. Voọc đầu trắng
sống đàn số con trong đàn biến đổi từ 5 đến 15 con, trung bình 9,36 con và
tỷ lệ đực/cái từ 1/1,5 đến1/2 (Nguyễn Phiên Ngung, 1997). Nadler, T và Hà Thăng
Long, 2000 cho biết số lượng con trung bình của một đàn Voọc đầu trắng biến đổi
từ 5,6 đến 6,7 con. Voọc đầu trắng ngủ trên vách đá vào mùa nóng và trong hang
vào mùa lạnh. Chúng thường cHọ:n những vách đã dựng đứng, có nhiều hang nhỏ để
làm nơi ngủ. Voọc đầu trắng kiếm ăn ngày hai buổi sáng và chiều. Cường độ kiếm
ăn mạnh vào đầu buổi sáng và giảm dần vào lúc 9 đến 10 giờ. Trưa nghỉ. Hoạt động
thầm lặng, di chuyển nhẹ nhàng cả trên cây lẫn mặt đất. Thức ăn là lá, quả cây
rừng, không ăn động vật. Bước đầu đã ghi nhận được Voọc đầu trắng ăn 74 loài
thực vật thuộc 31 Họ:, trong đó có 54 loài được Voọc sử dụng
lá
chồi non, 34 loài được ăn quả. Chưa gặp chúng ăn củ loài nào. Chưa có nghiên
cứu về sinh sản của Voọc đầu trắng. Quan sát các đàn Voọc đầu trắng qua nhiều
năm ở đảo Cát Bà cho thấy chúng có khả năng sinh sản quanh năm nhưng tập trung
nhất từ tháng 4 đến tháng10. Mỗi lứa đẻ một con. Con mới sinh có màu vàng.
Phân bố:
Trong nước:Hải
Phòng (Vườn
quốc gia
Cát Bà) .
Thế giới: Chỉ có ở Việt
Nam
Giá trị:
Voọc đầu trắng là
nguồn gen đặc hữu quý hiếm, có giá trị khoa học
và bảo tồn nhằm nghiên cứu nguồn gen và tiến hóa của chúng để phục vụ đời sống
con người.
Tình trạng:
Số lượng Voọc đầu
trắng hiện còn khoảng 104 - 135 cá thể (Nadler và Hà Thăng Long, 2000), do số
lượng ít, vùng phân bố hẹp, áp lực săn bắn vẫn chưa được chấm dứt nên phân loài
này đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.
Phân hạng:
CR
A1c,d C1+2b.
Biện pháp bảo vệ:
Hội nghị linh
trưởng tháng 10/1998 ở Hà Nội, IUCN (2000) xếp loài này vào nhóm rất nguy cấp
(CR). Phụ lục II CITES. Quyết định 194-CT (1986) về Quy định các khu rừng cấm;
Luật bảo vệ và phát triển rừng (1991), nhóm IB trong
Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Đã được bảo vệ ở
Vườn Quốc gia Cát Bà. Cần tăng cường công tác quản lý bằng mọi hình thức và giải
pháp.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.