Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU VÀ NHẬN BIẾT HỌ ĐỘNG VẬT (CHIM)

  Tra cứu họ động vật:

Cốc Phalacrocoracidae
 

Họ cốc gồm các loài có cỡ khá lớn hoặc trung bình với thân hình trứng và cổ dài. Mỏ có kích thước trung bình, thuôn tròn, nhưng chóp mỏ hơi phình to hơn và có móng cong, sắc. Chân ngắn nằm xa về phía sau thân. Đuôi khá dài, cánh ngắn, rộng và tròn. Bộ lông thường màu đen có ánh thép. Các loài cốc đều bơi lặn giỏi nhưng đi lại trên cạn khá khó khăn. Thức ăn của chúng là Cá.Cốc là những loài phân bố rộng rãi trên thế giới. Ở nước ta gặp 3 loài thuộc giống Phalacrocorax.

Cốc biển Fregatidae
Fregata minor
 

Gồm các loài chim đại dương có cỡ khá lớn (nặng khỏng 1,5kg). Thân ngắn, đuôi chẻ đôi và rất dài. Cánh dài và nhọn, lông cánh sơ cấp 1 dài nhất. Mỏ dài, mút cả mỏ trên và mỏ dưới đều cong xuống. Chân yếu, màng bơi nối giữa các ngón kém phát triển so với các họ khác cùng bộ. Tùi họng khá phát triển. Cốc biển không lặn được mà bơi cũng kém, vì vậy ít khi gặp chúng bơi trên mặt nước. Khi bắt mồi chúng xà xuống sát mặt nước rồi lại bốc lên ngay. Thức ăn của chúng là Cá. Họ Cốc biển gồm 5 loài thuộc giống Fregata. Ở Việt Nam gặp 2 loài.

Cò quăm Threskiornithidae
 

Họ Cò quăm gồm các loài có kích thước trung bình với các đặc điểm chính là mỏ dài. Khoẻ và thường cong đều hình cung hay thẳng, nhưng chóp mỏ dẹp bè ra Cổ dài và lúc hay duỗi thẳng ra phía trước, chân dài, ngón chân khá phát triển và giữa các ngón trước có màn hẹp. Phần trước đầu và ở một số loài toàn đầu và cổ trụi lông. Các loài thuộc loại Cò quăm không có diều. Chim đực và chim cái có bộ lông giống nhau. Họ Cò quăm gồm 30 loài thuộc 17 giống. Phần lớn các loài phân bố ở các vùng nhiệt đới, một số ở vùng ôn đới. Ở Việt Nam có 4 loài 4 giống.

Cổ rắn Anhingidae
 

Các loài chim thuộc họ Cổ rắn cỡ trung bình. Về cấu tạo chúng rất gần với họ Cốc chỉ khác là mỏ thẳng, mảnh và rất nhọn. Mép mút mỏ có răng cưa. Cổ và đuôi dài hơn cổ và đuôi của Cốc. Cánh nhọn, lông cánh thứ 3 dài nhất. 12 lông đuôi các lông ở vai dài và nhọn hình mũi mác. Các loài chim cổ rắn thường phân bố ở khắp các khu vực nước, đầm lầy trong lục địa. Họ Cổ rắn có 4 loài thuộc 1 giống Anhinga. Ở Việt Nam duy nhất có một loài.

Cu cu Cuculidae
 

Gồm các loài chim có cỡ trung bình một số ít loài cỡ bé. Cánh và đuôi dài. Chân ngắn, mặt ngoài của nửa trên giò thường có lông phủ. Chân thuộc kiểu chân chèo, hai ngón hướng về phía trước và hai ngón hướng về phía sau. Mỏ có kích thước trung bình, chóp mỏ trên hơi cong xuống, miệng rộng vì thường nuốt mồi lớn. Số lông cánh sơ cấp là 10, lông thứ 3 dài nhất. Số lông đuôi thường là 10, một số loài ở vùng nhiệt đới lông đuôi chỉ là 8. Bộ lông của họ này khá dày các lông cắm chắc vào da. Phần lớn các loài có màu xỉn, xám, hung đen, có điểm vằn trắng ở mặt bụng. Một số loài có màu đỏ và ánh thép. Hầu hết là những loài hoạt động ban ngày, định cư, Thức ăn chủ yếu của chúng là động vật nhỏ, nhất là côn trùng, một số loài khác ăn quả mềm. Rất nhiều loài thuộc họ này là những loài ăn trứng của các loài chim khác sau đó đẻ trứng của mình vào tổ đó. Ký sinh tổ là đặc tình cơ bản của họ này do vậy thời kỳ phôi thai trứng của chúng khá nhanh 11-15 ngày đã nở và thường ngắn hơn các loài bị ký sinh. Ở Việt Nam có 17 loài.

Cu cu rốc Capitonidae
 

Gồm các loài chim cỡ trung bình. Bộ lông có màu sáng, phần chính là màu lục có lẫn một ít màu đỏ, vàng hoặc nâu. Thân chắc, cổ ngắn, đầu to, mỏ to và khoe, chóp mỏ nhọn, mỏ trên hơi chùm lên mỏ dưới. Lỗ mũi mở ra ở gốc mỏ và luôn luôn có long che kín. Hai bên mép mỏ có nhiều lông tơ cứng và dài. Cánh tròn, có 10 lông cánh sơ cấp, lông cánh sơ cấp thứ nhất ngắn. Là những loài chim sống trên cây mà phần lớn là ở rừng. Chúng làm tổ trong hốc cây. Mỗi lứa chim đẻ 2-5 trứng, vỏ màu trắng. Thức ăn chính là quả mềm, một số ít ăn hạt và một vài loài ăn côn trùng. Thỉnh thoảng cũng gặp những cá thể ăn cả chim non, trứng chim hoặc thằn lằn. Họ cu rốc gốm 72 loài thuộc 13 giống phân bố ở các khu rừng nhiệt đới châu Mỹ, châu Phi, châu Á. Ở Việt Nam gặp 10 loài thuộc giống Megalaima

Cú lợn Tytonidae
 

Gồm các loài chim có kích cỡ trung bình hay nhỏ. Một số loài có kích thước lớn. Đặc trưng của họ này là mỏ ngắn, mỏ trên rất cong. Gốc mỏ trên phủ da mềm. Thường ở da gốc mỏ có lông tơ nhỏ mọc hướng về phía trước. Lỗ tai rất rộng và thường có viền mép da. Lông ở mặt nhỏ, xếp toả xung quanh thành 1 vòng gọi là đĩa mặt hình tim rất rõ. Một số loài còn có chúm lông dài, dựng lên như hai tai thú là lông mào tai. Chân ngắn, ngón chân có thể gập về phía trước và phía sau. Giò và chân thường phủ lông. Cánh dài, tròn, lông cánh sơ cấp là 10-11. Đuôi tương đối ngắn, gốm 12 lông. Bộ lông của họ này khá dày, mềm. Màu lông thường xỉn, lẫn lộn giữa các màu xám, nâu, hung và thường có nhiểu vệt và chấm màu thẫm hơn hay trắng. Chim cái nhỏ hơn và có bộ lông giống chim đực. Là những loài ăn đêm và lúc hoàng hôn. Sống định cư, ở nhiều sinh cảnh khác nhau. Thức ăn là những loài động vật nhỏ như chuột, rắn, thằn lằn. . . Chúng làm tổ ở các hốc cây, kẽ đá, những tổ cũ của nhiều loài chim khác. Mỗi năm đẻ 1 lứa mỗi lứa 3-5 trứng. Ở Việt Nam có 16 loài.

Cú mèo Strigidae
 

Gồm các loài chim có kích cỡ trung bình hay nhỏ. Một số loài có kích thước lớn. Đặc trưng của họ này là mỏ ngắn, mỏ trên rất cong. Gốc mỏ trên phủ da mềm. Thường ở da gốc mỏ có lông tơ nhỏ mọc hướng về phía trước. Lỗ tai rất rộng và thường có viền mép da. Lông ở mặt nhỏ, xếp toả xung quanh thành 1 vòng gọi là đĩa mặt. Một số loài còn có chúm lông dài, dựng lên như hai tai thú là lông mào tai. Chân ngắn, ngón chân có thể gập về phía trước và phía sau. Giò và chân thường phủ lông. Cánh dài, tròn, lông cánh sơ cấp là 10-11. Đuôi tương đối ngắn, gốm 12 lông. Bộ lông của họ này khá dày, mềm, bở. Màu lông thường xỉn, lẫn lộn giữa các màu xám, nâu, hung và thường có nhiểu vệt và chấm màu thẫm hơn hay trắng. Chim cái nhỏ hơn và có bộ lông giống chim đực. Là những loài ăn đêm và lúc hoàng hôn. Sống ở nhiều sinh cảnh khác nhau. Phần lớn là những loài định cư. Thức ăn là những loài động vật nhỏ như chuột, rắn, thằn lằn. . . Chúng làm tổ ở các hốc cây, kẽ đá, những tổ cũ của nhiều loài chim khác. Mỗi năm đẻ 1 lứa mỗi lứa 3-5 trứng. Ở Việt Nam có 16 loài.

Cú muỗi Caprimulgidae
 

Là những loài chim hoạt động về đêm. Bộ lông có màu tối thẫm hay lẫn với màu lá khô hay vỏ cây. Phần lớn có kích thước trung bình khoảng trên 100g. Mỏ ngắn nhưng rất rộng, mép mỏ có nhiều lông tơ dài, cứng. đặc điểm này liên quan với cách bắt mồi lúc bay của chim. Mắt lớn, hướng về phía trước. Cánh cú muỗi dài và hẹp, số lông cánh sơ cấp 10, đôi khi 11, số lông đuôi 12, chân ngắn, các ngón rất yếu, lông có màu hung thẫm, nhìn chung bộ lông chim đực và chim cái rất giống nhau. Là những loài đơn thê, thường không làm tổ, đẻ trứng trong hốc cây hay trên đám lá khô ở mặt đất. Mỗi năm đẻ 1 lứa mỗi lứa đẻ 1 đến 4 trứng. Có 92 loài thuộc 23 giống phân bố trên thế giới . Ở Việt Nam có 5 loài thuộc 2 giống.

Cú muỗi mỏ quặp Podargidae
 

Là loài chim hoạt động về đêm. Bộ lông có màu tối thẫm hay lẫn với màu lá khô hay vỏ cây. Có kích thước trung bình khoảng trên 100g. Mỏ ngắn nhưng rất rộng, mép mỏ có nhiều lông tơ dài, cứng. đặc điểm này liên quan với cách bắt mồi lúc bay của chim. Mắt lớn, hướng về phía trước. Cánh dài và hẹp, số lông cánh sơ cấp 10, đôi khi 11, số lông đuôi 12, chân ngắn, các ngón rất yếu, lông có màu hung thẫm, nhìn chung bộ lông chim đực và chim cái rất giống nhau. Là loài đơn thê, thường không làm tổ, đẻ trứng trong hốc cây hay trên đám lá khô ở mặt đất. Mỗi năm đẻ 1 lứa mỗi lứa đẻ 1 đến 4 trứng. Có 92 loài thuộc 23 giống phân bố trên thế giới. Ở Việt Nam có 1 loài thuộc giống Batrachostomus.

  Tra cứu họ động vật:
 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này