|
BÁCH XANH
BÁCH XANH
Calocedrus macrolepis
Kurz, 1873.
Libocedrus macrolepis
(Kurz) Benth. & Hook. f. 1880;
Thuja macrolepis
(Kurz) Voss, 1907;
Heydenia macrolepis
(Kurz) H. L. Li, 1953.
Họ: Hoàng đàn Cupressaceae
Bộ:
Hoàng đàn Cupressales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ thường xanh, thân thẳng, cao
20 - 25 m, đường kính thân 60 - 80 cm, phân cành ngang, tán lá hình tháp rộng
hoặc hình dù. Vỏ màu nâu đen, nứt dọc. Lá hình vẩy xếp thành 4 dãy, hai lá vẩy
trong to hơn hai lá vẩy bên; vẩy trong dài 5 mm, lá vẩy bên dài 2 mm, mũi tù.
Nhìn chung lá gần giống lá Pơ mu (Fokienia hodginsii) nhưng có hai điểm
khác là: nhỏ hơn và hai lá vảy trong to hơn hai lá vẩy bên. Nón đơn tính cùng
gốc; nón đực đơn độc mọc ở tận cùng cành; nón cái hình bầu dục, dài 12 - 18 mm,
rộng 6 mm, gồm 6 vẩy nứt thành 3 mảnh với 2 mảnh bên to và một mảnh giữa nhỏ hơn
mang 2 hạt (mỗi vẩy hữu thụ có 1 hạt). Hạt hình trứng dài, có hai cánh không
bằng nhau.
Sinh học và sinh thái:
Nón xuất hiện tháng 3 - 4, chín vào
tháng 9 - 10. Tái sinh bằng hạt tốt, đặc biệt nơi có nhiều ánh sáng. Loài mọc
trên núi đất hoặc núi đá vôi, thường ở đường đỉnh hoặc gần đỉnh, trên núi đất
loài mọc trong rừng cây lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới, ở độ cao từ 900
tới 1800 m; trên núi đá vôi loài mọc thành quần thể thuần loại trên đường đỉnh (khu
Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò và xã Mường Lựm).
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai, Sơn La (Yên
Châu: Mường Lựm, Vân Hồ), Hà Giang, Hoà Bình (Mai Châu: Hang Kia, Pà Cò; Đà Bắc),
Hà Tây (Ba Vì), Đắk Lắk (Krông Bông: Chư Yang Sinh), Lâm Đồng (Đà Lạt, Bì Đúp),
Khánh Hoà (Nha Trang, Hòn Bà), Ninh Thuận.
Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc,
Mianma, Thái Lan.
Giá trị:
Gỗ thớ thẳng, mịn, thơm, không bị
mối mọt, dễ gia công, dùng trong xây dựng, đóng đồ cao cấp, làm hàng mỹ nghệ. Do
gỗ thơm nên còn dùng làm bột hương cao cấp thay cho gỗ Hoàng đàn (Cupressus
torulosa D. Don) đã cạn kiệt. Cây có dáng đẹp nên thường được trồng làm cảnh
và lấy bóng mát.
Tình trạng:
Loài có khu phân bố rộng với những
quần thể nhiều cá thể, song đã bị khai thác nhiều để lấy gỗ dùng trong nước và
xuất khẩu. Mặc dù có tại Vườn quốc gia Ba Vì và mới
trồng tại Vườn quốc gia Cúc Phương, nhưng
nếu không được bảo vệ sẽ có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Phân hạng: EN
A1a,c,d B1+2b,c.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
"đang nguy cấp" (E) và Danh mục Thực vật rừng, Động
vật rừng nguy cấp, quý hiếm (nhóm 2) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày
30/3/2006 của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại.
Cần bảo vệ nghiêm ngặt và trồng tại các Khu bảo tồn thiên nhiên Pà Cò -
Hang Kia, Vườn quốc gia Ba Vì và các địa phương. Nghiên cứu đưa loài này vào kế
hoạch trồng và phục hồi rừng tại vùng đất thấp phù hợp và bảo tồn ngoại vi (Ex
situ).
Tài liệu dẫn: Sách
đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 492. |
|