|
SAO LÁ CONG
SAO LÁ CONG
Shorea falcata
J.E. Vidal, 1962.
Họ: Dầu Dipterocarpaceae
Bộ:
Bông Malvaceae
Đặc điểm nhận dạng:
Cây
gỗ
nhỏ thường xanh, cao 10 - 12m; vỏ màu xám. Cành non, chồi ngọn, cuống lá và
cụm hoa có lông hình sao màu xám tro. Lá dai, hình trứng thuôn, hơi cong hình
mác, dài 8 - 10 cm, rộng 3 - 4 cm, đầu nhọn, nhẵn; gân bên 12 - 14 đôi, hơi cong
về phía
mép lá. Cụm hoa chuỳ, tán thưa, mọc ở nách lá hay đầu cành, dài 10 - 15
cm.Nụ hình trứng, thót ở đầu, dài 5 mm. đường kính 3mm, gần như không cuống. Hoa
màu vàng. Đài dài 3,5 mm, phủ lông màu tro ở mặt ngoài.
Cánh
hoa màu vàng, có đốm đỏ ở mặt ngoài, phủ đầy lông ở phần không bị lợp, dài 6
- 7 mm. Nhị 50 - 70, có chỉ nhị dài gấp đôi
bao
phấn. Bầu dài 2 mm, phủ đầy lông màu hoe vàng; vòi nhẵn, dài 1,5 mm. Quả màu
nâu, có 5 cánh; 3 cánh to, dài 3 - 5 cm và 2 cánh nhỏ.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 6, mùa quả chín tháng
9 - 10. Mọc trong các rừng nhiệt đới thường xanh, thấp, trên các bãi và đụn cát
đỏ ven biển, cùng với Sao lá tim (Hopea cordata) và một số loài cây gỗ
khác. Cây chịu khô hạn. Tái sinh chồi khá tốt.
Phân bố:
Trong nước:
Mới chỉ tìm thấy ở các xã Xuân Hoà (huyện
Sông Cầu, Phú Yên), Cam Hải Đông và Mỹ Ca (Huyện Cam Ranh, Khánh Hoà).
Thế giới:
Chưa biết.
Giá trị:
Loài
đặc hữu và nguồn gen hiếm của Việt nam, có khu phân bố hẹp. Cây có khả năng
chịu nóng và hạn tốt nên có thể trồng trong các
rừng phòng hộ ven biển và cây cung cấp củi đun cho nhân dân địa phương, vì
khả năng tái sinh chồi sau khi chặt.
Tình trạng:
Hiện nay môi trường sống đang bị suy
giảm mạnh do rừng ven biển bị tàn phá. Số cây còn lại rất ít, nhưng cũng vẫn bị
khai thác lấy củi.
Phân hạng:
CR
A1c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
" bị đe doạ" (Bậc
T). Đã được nghiên cứu để gieo trồng ở Phú Yên. Cần bảo vệ các cây mẹ còn
lại rất ít để làm cây giống.
Tài liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam năm 2007 – Phần thực vật – Trang 178. |
|