|
New Page 1
RONG MƠ MỀM
Sargassum tenerrimum J.
Agardh.
Sargassum campbellianum
Grev. 1848
Họ: Rong mơ Sargassaceae
Bộ: Rong fuca Fucales
Đặc điểm nhận dạng:
Rong sống một năm, mọc thành bụi lớn, màu nâu vàng hoặc nâu thẫm,
cao 40 cm hoặc hơn. Bàn bám hình đĩa tròn, hình nón; thân chính hình trụ rất
ngắn. Nhánh chính hình trụ, trên đó mọc ra nhiều nhánh bên, mọc cách nhau có xu
thế ngắn dần về phía ngọn, dài 3 - 5 cm. Lá hình bầu dục, mỏng, mềm, dai, hình
kim lưới hay hình dải, dài 1,8 - 4 cm, rộng 4 - 5 mm, mép lá có răng cưa dày
mịn, ổ lông rõ ràng. Gân giữa không suốt đỉnh, đỉnh lá tù. Túi khí (phao) hình
cầu đều đặn hay bầu dục tròn, đường kính 2 - 3 mm, đỉnh tù, cuống hình trụ tròn,
có chiều dài bằng hay ngắn hơn túi. Thỏi sinh sản (đế) dạng ba cạnh (tam lăng)
hay dẹp, chia nhánh, có nhiều răng to và gai, mọc thành chùm; trên thỏi sinh sản
đôi khi mọc lá và túi khí. Mẫu ép khô dễ dính trên giấy.
Sinh học và sinh thái:
Rong mơ mềm thường phát triển tốt vào cuối đông, mùa xuân, đầu
mùa hè. Chúng bám trên đá hay san hô chết ở những bãi đá độ dốc thấp, sóng đánh
mạnh, trong các khe vũng vùng triều hay vùng dưới triều sâu 2 - 3 m.
Phân bố:
Trong nước:
Quảng Ninh (Cẩm Phả, Cô Tô), Hải Phòng (Đồ Sơn, Cát Hải, Cát Bà),
Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà, Ninh Thuận.
Thế giới:
Ấn Độ, Srilanca, Trung Quốc, Malaixia, Niu Dilân, Ôxtrâylia.
Giá trị:
Làm thuốc chữa một số bệnh như đái đường, sưng tuyết giáp trạng,
vv... Làm nguyên liệu chế biến keo alginate (có gần 1000 ứng dụng trong các
ngành kinh tế quốc dân). Có thể ăn như rau xanh.
Tình trạng:
Loài bị đe doạ giảm bớt số lượng cá thể vì khi khai thác những
loài rong khác có trữ lượng lớn mọc cùng thì đồng thời người ta cũng thu luôn cả
loài này.
Phân hạng: EN
A1a,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam
(1996) với cấp đánh giá "biết không chính xác" (Bậc K). Khoanh một khu
vực để bảo vệ trong hệ sinh thái tự nhiên và đưa vào trồng thử.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 553.
|
|