ĐỖ TRỌNG
ĐỖ
TRỌNG
Eucommia ulmoides
Oliv., 1890
Họ: Đỗ trọng Eucommiaceae
Bộ:
Đỗ trọng Eucommiales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây nhỡ hay cây
to cao 10 m hay hơn, vỏ thân và lá có nhựa mủ trắng vỏ màu xám, khi bẻ đôi sẽ
thấy những sợi nhựa trắng mảnh như tơ nối giữa các mảnh vỏ; lá mọc so le, hình
trứng rộng, dài 6 - 8 cm, rộng 3 - 7, 5 cm, màu lục bóng, mép lá khía răng. Lá
cũng có gôm tựa Gutta percha như ở vỏ. Hoa đơn tính khác gốc; hoa đực và
hoa cái không có bao hoa; hoa đực mọc thành chùm; hoa cái tụ tập 5 - 10 cái ở
nách lá. Quả hình thoi dẹp, màu nâu.
Sinh học, sinh
thái:
Loài của Trung
Quốc mọc hoang ở vùng lạnh và cũng được trồng nhiều, nhập giống vào trồng ở nước
ta từ năm 1958, đến năm 1960, việc trồng thử ở Sapa đạt kết quả tốt. Ta đã nhân
giống và trồng ở một số nơi khác ở Vĩnh Phú, Lai Châu, Thanh Hóa, Gia Lai, Lâm
Đồng thì nhận thấy cây sinh trưởng tốt ở vùng núi cao trên 1.000m. Trồng 10 năm
50 - 60 cm mới thu hoạch được vỏ tốt. Có thể thu vỏ vào mùa xuânbằng cách bóc
trừ lại 1/3 chu vi thân đảm bảo cho cây vẫn sinh trưởng bình thường, để sau vài
năm lại tiếp tục thu hoạch. Vỏ bóc ra đem ép phẳng. Xếp thành đống, ủ 6 - 7 ngày
đến khi mặt trong có màu đen. Phơi hay sấy khô, cạo vỏ ngoài cho nhẫn bóng.
Phân bố:
Trong nước: Trồng
ở Vườn dược liệu ở các tỉnh phía Bắc như Lào Cai (Sapa), Vĩnh Phúc (Tam Đảo),
Lai Châu.
Nước ngoài: Cây
nguyên bản của Trung Quốc.
Công dụng:
Vỏ đỗ trọng dùng
trị thận hư, đau lưng, chân gối yếu mỏi, phong thấp, sưng tê phù, cao huyết áp,
di tinh liệt dương, có thai đau bụng, động thai ra huyết, hay đi đái đêm bại
liệt. Ngày dùng 12 - 20g, dạng thuốc sắc, cao lỏng, rượu thuốc hoặc hoàn tán.
Khi dùng có thể tẩm muối sao.
Mô tả loài:
Trần Hợp, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.