THẰN LẰN NGÓN ĐEN
THẰN LẰN NGÓN ĐEN
Cyrtodactylus nigriocularis
Nguyen, Orlov & Darevsky, 2006
Họ:
Tắc kè Gekkonidae
Bộ:
Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận
dạng:
Loài thằn ngón có
kích thước khá lớn. Màu nâu đen, chiều dài thân đến 107,5mm, chiều đài đầu 33
đến 35mm. Chiều rộng đầu từ 21 đến
23,3mm. Đầu, dẹt, mõm rộng, mắt to, tròn, đen,
thân
tương đối mảnh, thuôn dài với các nếp gấp
ở hai bên bụng phát triển.
Các chi tương đối dài, các ngón dài; đuôi
dài hơn chiều dài từ mõm tới huyệt. Có các vảy mặt dưới đuôi lớn, vảy
ở gốc đuôi xếp vòng, không nở rộng
và không phân chia; 13 - 14 vảy môi trên, 13 - 15 vảy môi dưới, 17 - 21 phiến
mỏng dưới ngón hẹp trên ngón chân thứ tư. 119 - 145 hàng vảy quanh thân;
không có các vảy lớn ở đùi.
Con đực nhỏ hơn con cái và rất giống
nhau. Đây là loài bò sát điển hình sống
trong hang động nên màu sắc cơ thể chúng cũng có thể đổi tùy ánh sáng,
môi trường sống và theo mùa.
Cyrtodactylus
nigriocularis
khác các loài cùng
Giống Cyrtodactylus bởi những đặc điểm sau:
Khác với loài
Cyrtodactylus otai và Cyrtodactylus bobrovi đều có vảy dưới đuôi nở rộng nhẹ,
trong khi Cyrtodactylus nigriocularis đều nở rộng rõ.
Khác với loài
Cyrtodactylus phuhuensis
ở chỗ có 5 lỗ trước huyệt (so với không có hoặc có 2 lỗ ở những loài
khác).
Khác với
loài Cyrtodactylus takouensis bởi có
vảy đùi nở rộng.
Khác các loài Cyrtodactylus phumyensi bởi không có vảy dưới đuôi nở rộng ngang như các loài kia.
Sinh học, sinh
thái:
Loài bò sát ăn
đêm, sống trong các hang đá sâu nơi có nhiều đá mẹ ở độ cao từ 100m đến 300m so
với mặt biển. Thường xuất hiện ở gần cửa hang đá săn mồi vào mùa mưa và chui sâu
xuống hang đá vào mùa khô. Thức ăn của chúng là những loài côn trùng nhỏ sống
trong khu vực sinh sống. Trong điều kiện nuôi nhốt chúng ăn các
loài côn trùng nhỏ như cào cào, dế, kiến.
Phân bố:
Các mẫu chuẩn và
mẫu so sánh của loài thằn lằn chân ngón này thu được ở núi Bà Đen,
Tân Châu, Dương Minh Châu và thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh).
Loài thằn lắn mới này mới được các nhà khoa học Việt Nam và Nga công bố tháng 3
năm 2006 trên tạp chí khoa học chuyên ngành bò sát - lưỡng cư của Nga (Russian
Journal of Herpetology) và được đặt tên theo khu vực phân bố của chúng ở
núi Bà Đen, Tây Ninh, Việt Nam.
Mô tả loài: Phùng Mỹ Trung, Nguyễn
Quảng Trường, Phạm Thế Cường - WebAdmin.